© 2020 International Bank for Reconstruction and Development/The World Bank 1818 H Street NW Washington DC 20433 Telephone: 202–473–1000 Internet: www.worldbank.org Ấn phẩm này là sản phẩm của đội ngũ chuyên gia Ngân hàng Thế giới và các chuyên gia độc lập. Những phát hiện, diễn giải, và kết luận trình bày trong báo cáo này không nhất thiết phản ánh quan điểm của Ngân hàng Thế giới, Ban Giám đốc Điều hành Ngân hàng Thế giới, hay các chính phủ mà Ngân hàng Thế giới đại diện. Ngân hàng Thế giới không đảm bảo về tính chính xác, toàn diện, và cập nhật của số liệu trong nghiên cứu này và không chịu trách nhiệm về mọi sai sót, thiếu sót, hoặc sai lệch về thông tin, hoặc trách nhiệm liên quan đến việc sử dụng hoặc không sử dụng thông tin, phương pháp, quy trình hoặc kết luận đưa ra trong nghiên cứu này. Đường biên giới, màu sắc, tên gọi và thông tin khác thể hiện trên các bản đồ trong báo cáo này không hàm ý đưa ra nhận định của Ngân hàng Thế giới về tư cách pháp lý của bất kỳ vùng lãnh thổ nào và cũng không thể hiện sự ủng hộ hay chấp nhận các đường biên giới đó. Không nội dung nào trong tài liệu này tạo nên hoặc được coi như hạn chế đối với hoặc từ bỏ các đặc quyền và miễn trừ của Ngân hàng Thế giới, là các quyền được bảo lưu đặc biệt. Bản quyền và Giấy phép Tài liệu trong ấn phẩm này tuân theo bản quyền. Vì Ngân hàng Thế giới khuyến khích phổ biến kiến thức, ấn phẩm này có thể được sao chép toàn bộ hoặc một phần cho các mục đích phi thương mại với điều kiện có ghi rõ nguồn. Mọi câu hỏi về quyền và giấy phép, bao gồm quyền cấp phép lại, xin gửi về Bộ phận Xuất bản và Thông tin, Ngân hàng Thế giới. 1818 H Street NW. Washington. DC 20433. USA; fax 202–522–2625. e–mail pubrights@tsworldbank.org Người nhận: Gayatri Acharya, Emilie Cassou, Steven Jaffee và Elyssa Kaur Ludher, 2020. RICH Food, Smart City. Washington, DC: World Bank. Thiết kế trang bìa và minh họa: Ankit Kapoor, Đồ họa và trình bày: Macro Graphics Pvt Ltd TÓM TẮT TỔNG QUAN TỔNG QUAN Hệ thống lương thực – thực phẩm hoạt động hiệu quả là một cấu phần quan trọng của nền kinh tế, của bản sắc, cũng như sức khỏe con người và môi trường của các thành phố châu Á. Hệ thống lương thực – thực phẩm lành mạnh và bền vững nên thực sự phải trở thành khát vọng rõ ràng của các thành phố năng động Châu Á do tầm quan trọng của thực phẩm đối với một số quan tâm và ưu tiên hàng đầu của những thành phố này, bao gồm tăng trưởng việc làm và đổi mới sáng tạo, thành phố đáng sống và bền vững, sức khỏe tài chính, an toàn, và khả năng thích ứng. Hơn nữa, với việc các thành phố đang phải đối mặt với những thách thức và cơ hội đáng kể liên quan đến thực phẩm, sự quan tâm đầy đủ của các nhà quy hoạch và lãnh đạo của các thành phố Châu Á đối với vấn đề thực phẩm là thực sự cần thiết, ngoài ra, các vấn đề về hệ thống lương thực – thực phẩm cũng cần phải là một nội dung chính trong quy hoạch và chính sách đô thị. Tuy nhiên, ở nhiều quốc gia mới nổi của châu Á, thực phẩm vẫn là một điểm mù trong chính sách và quản trị đô thị. Hệ thống lương thực – thực phẩm hiếm khi là lĩnh vực trọng tâm của chính sách đô thị và hầu như không xuất hiện trong quy hoạch không gian và chiến lược đô thị. Những vấn đề về hệ thống lương thực – thực phẩm đô thị thường chỉ được giải quyết từng phần và mang tính đối phó. Các cơ quan chính quyền thành phố khác nhau thường giải quyết triệu chứng của các vấn đề về hệ thống lương thực – thực phẩm một cách độc lập mà không có sự phối hợp. Một số hành động bởi các thành phố ở những lĩnh vực khác có thể vô tình gây hậu quả bất lợi cho người tiêu dùng và các đơn vị kinh doanh lương thực thực phẩm đô thị. Trong khi đô thị châu Á đã đạt được danh tiếng xứng đáng về đổi mới trong nhiều lĩnh vực, khu vực này lại đang rất tụt hậu về chính sách thực phẩm đô thị TÓM TẮT TỔNG QUAN xv so với các khu vực khác. Trong số hơn 200 thành phố quốc tế đã ký Hiệp ước Chính sách Thực phẩm Đô thị Milan với cam kết lồng ghép các giải pháp thực phẩm bền vững trong chính sách và quản trị đô thị, chỉ có ba thành phố ở Nam Á (Colombo, New Delhi và Pune) và có không thành phố nào ở Đông Nam Á. Một yếu tố giải thích cho tình trạng thực phẩm hiếm khi hiện diện trong hoạch định chính sách đô thị là vấn đề thể chế. Trên toàn châu Á, chính sách lương thực từ lâu vốn được coi là nhiệm vụ của các bộ về nông nghiệp. Trên thực tế, các bộ về nông nghiệp có chính sách tập trung tăng cường sản xuất nông nghiệp cơ bản, thúc đẩy phát triển nông thôn, và thực hiện các mục tiêu an ninh lương thực quốc gia. Các khu vực đô thị nhìn chung không được đề cập trong quy hoạch nông nghiệp hay quy hoạch nguồn tài nguyên thiên nhiên. Sự phát triển của những tổ chức như cơ quan an toàn thực phẩm, cục dinh dưỡng trong các bộ y tế, và cơ quan quản lý phát triển thị trường, cho thấy các vấn đề của hệ thống lương thực – thực phẩm hiện đang được nhiều cơ quan khác nhau giải quyết với rất ít sự phối hợp. Ngoài ra, nhiều vấn đề cốt lõi cần được quan tâm trong hệ thống lương thực – thực phẩm đô thị, bao gồm kho vận thực phẩm, an toàn thực phẩm, kinh doanh thực phẩm, chất lượng chế độ ăn, và chất thải thực phẩm chưa được giao cho một cơ quan có thẩm quyền và do đó trở thành những lĩnh vực chưa được quan tâm đầy đủ. Hiện trạng thể chế như vậy phần nào giải thích nghịch lý rằng thực phẩm đô thị một mặt là “vấn để của tất cả mọi người” đồng thời cũng “chẳng phải việc của ai”. Hiện trạng này cũng giải thích những thiếu hụt kéo dài về chính sách và quản trị đô thị liên quan đến lương thực thực phẩm, mặc dù tương lai của nhiều bên liên quan gắn liền với vấn đề này – và nhu cầu rõ ràng phải có chiến lược đa ngành nhất quán và hành động phối hợp. Một yếu tố quan trọng khác là việc các nhà quy hoạch và hoạch định đô thị phải giải quyết quá nhiều vấn đề ở các thành phố châu Á đang phát triển nhanh chóng. Nhiều thành phố đang phải đối mặt với hàng loạt những thách thức liên quan đến sự phát triển không theo quy hoạch, bao gồm tắc nghẽn giao thông, ô nhiễm không khí, tích tụ chất thải rắn, cơ sở hạ tầng vật chất kém phát triển, cũng như yếu kém về dịch vụ y tế, giáo dục và các dịch vụ khác. Những thách thức này đều rất rõ rệt, và là những thách thức mà cư dân đô thị đang lên tiếng yêu cầu có giải pháp. Ngược lại, nhiều vấn đề quan trọng liên quan đến thực phẩm nhưng vô hình do công tác giám sát hoặc đo lường chưa tốt lại đang nổi lên đều đặn và tăng dần. Kết quả là những vấn đề này không tạo cảm giác cấp bách ở mức độ tương tự như các vấn đề khác của đô thị. Trong một số trường hợp, tình trạng này dẫn tới quan điểm là vấn đề hệ thống thực phẩm đô thị có thể được giải quyết sau, khi các thành phố đã trở nên giàu có hơn và nên được giải quyết sau những vấn đề dường như cấp bách hơn gắn với tăng trưởng và phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên, chính tốc độ đô thị hóa nhanh chóng ở khu vực châu Á mới nổi đã tạo ra sự cấp thiết phải lồng ghép hệ thống thực phẩm trong quy hoạch và quản trị đô thị. Việc bỏ qua hoặc chậm trễ trong chính sách thực phẩm đô thị đang vô tình khiến nhiều thành phố châu Á có những bước lùi không cần thiết và bỏ lỡ cơ hội trên quy mô lớn. Các thành phố đang vô tình áp dụng những chính sách có hại, giải quyết không triệt để rủi ro đang phát sinh, và chưa thực sự tận dụng được hệ thống thực phẩm để thúc đẩy các mục tiêu của thành phố. Các quyết định về chính sách và quy hoạch đô thị ngày nay và trong những năm tới có thể sẽ có tác động sâu rộng, bao gồm cả hậu quả bất lợi, đối với người cung cấp và người tiêu dùng thực phẩm. Những quyết định này liên quan đến nhiều vấn đề đa dạng như quy hoạch sử dụng đất ở đô thị và ven đô, sử dụng không gian công cộng, đầu tư vào hệ thống quản lý nước, vệ sinh và hệ thống quản lý chất thải, giao thông đô thị và kho vận, và cơ sở hạ tầng chợ công cộng. Thông thường, tác động của những quyết định này đối với hệ thống lương thực – thực phẩm và các tác động trực tiếp khác chưa được đánh giá hoặc chưa có nhiều ảnh hưởng trong quá trình ra quyết định. Trong khi đó, nhiều thành phố đang trong giai đoạn tăng trưởng nhanh chóng phải đối mặt với tính dễ bị tổn thương của cư dân có thu nhập thấp trước những cú sốc về giá thực phẩm và tình trạng mất an ninh dinh dưỡng và lương thực thường xuyên. Có thể cần tới nhiều can thiệp khác nhau hơn đối với các nhóm dễ bị tổn thương ở thành phố so với giải pháp áp dụng theo cách truyền thống ở nông thôn hoặc vùng sâu vùng xa. Tuy nhiên, rất ít thành phố có đủ nguồn lực hoặc trang bị đầy đủ để đối mặt với những thách thức mới này. Cùng với đó, những thay đổi về cấu trúc của hệ thống lương thực – thực phẩm châu Á đang gia tăng lợi ích tiềm tàng của việc hình thành hệ thống lương thực – thực phẩm đô thị cũng như làm tăng chi phí của việc không hành động. Những cơ hội kinh tế mới nổi là một yếu tố cần cân nhắc. Các thành phố và thị trấn là nơi xvi THỰC PHẨM TỐT, THÀNH PHỐ AN TOÀN cư trú chính của tầng lớp trung lưu đang giàu lên nhanh chóng ở châu Á, và nhu cầu thực phẩm an toàn, đa dạng, tiện lợi, và có chất lượng cao hơn của tầng lớp này đang tạo ra cơ hội thị trường khổng lồ. Các thành phố chiếm hơn một nửa chi tiêu lương thực quốc gia ở các nước châu Á mới nổi và tỷ trọng này sẽ tăng mạnh trong tương lai. Những rủi ro không lường trước hoặc do quản lý yếu kém là vấn đề thứ hai cần cân nhắc. Ở các quốc gia châu Á có thu nhập trung bình, các thành phố đang nổi lên như điểm nóng vì gánh nặng kép bao gồm suy dinh dưỡng, gánh nặng sức khỏe và kinh tế do thực phẩm không an toàn, và rủi ro an toàn sinh học, cùng một loạt các vấn đề môi trường có ảnh hưởng đến hoặc do hệ thống sản xuất và phân phối thực phẩm gây ra. Mặc dù thường xuyên phải đối mặt với những hạn chế về quyền hạn và nguồn lực, chính quyền đô thị và các khu vực hành chính lân cận có khả năng hoặc lợi thế đặc biệt để giải quyết các vấn đề phức tạp của hệ thống lương thực – thực phẩm. Đôi khi các thành phố có thể hành động nhanh hơn các bộ ở trung ương trong việc điều phối những giải pháp can thiệp đa ngành và thử nghiệm những can thiệp lấy người dùng làm trung tâm. Các thành phố có thể tập trung vào đặc thù của thách thức tại địa phương và sử dụng các đối tượng và nguồn lực của địa phương để ứng phó. Các thành phố có thẩm quyền định hướng môi trường xây dựng và sử dụng không gian đô thị, có thể định hướng việc sử dụng đất canh tác ở đô thị và ven đô và nguồn cung nông sản tươi sống cho người dân thành phố, và tận dụng các điểm nghẽn trong chuỗi cung ứng để có tác động rộng rãi tiềm tàng đến hoạt động sản xuất và tiêu thụ. Ví dụ, các thành phố có thể tận dụng sức mạnh của hoạt động mua thực phẩm của các tổ chức cũng như việc cấp phép và quy định về kinh doanh thực phẩm. Các thành phố cũng có thể tận dụng công nghệ thông tin mới, như có thể thấy trong sự phát triển bùng nổ gần đây của thương mại điện tử dựa trên thực phẩm ở Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Singapore và Thái Lan, và việc áp dụng ngày càng nhiều công nghệ truy suất để hỗ trợ quản lý chất lượng và an toàn thực phẩm. Tất nhiên, cũng có những lĩnh vực mà các thành phố có xu hướng thiếu ảnh hưởng, như thương mại thực phẩm quốc tế và giá cả tương đối của các mặt hàng thực phẩm khác nhau. Phần lớn các thành phố ở châu Á mới nổi vẫn chưa tận dụng hết các lĩnh vực có lợi thế so sánh để cải thiện quỹ đạo và kết quả của hệ thống lương thực – thực phẩm. Gần 3/4 số thành phố tham gia cuộc khảo sát thực hiện trong khuôn khổ nghiên cứu này vẫn đang tương tác với hệ thống lương thực – thực phẩm theo “phương thức chữa cháy” mang tính đối phó, hoặc đang ở giai đoạn đầu phát triển và thực hiện một tập hợp chặt chẽ các chính sách và chương trình lương thực mang tính hướng tới tương lai, toàn diện, và bao trùm. Còn nhiều điều có thể và cần được thực hiện ở hầu hết các thành phố, bao gồm cả những thành phố có quy mô, sự thịnh vượng, và tài nguyên khác nhau. Nghiên cứu này nêu bật các lĩnh vực trong triển khai hệ thống lương thực – thực phẩm dường như liên quan đến phần lớn các thành phố ở châu Á mới nổi. Trong khi cuốn sách này nhấn mạnh những điển hình tốt trong nhiều lĩnh vực, nó cũng sẽ không “kê đơn” cách thức từng thành phố phải triển khai hệ thống lương thực – thực phẩm như thế nào. Bối cảnh các thành phố mang tính đa dạng và sự đa dạng này tác động đến sự phù hợp của các công cụ và phương pháp tiếp cận cụ thể. Chiến lược và kế hoạch hành động cần được xây dựng cho từng địa phương và quốc gia. Việc lồng ghép hiệu quả vấn đề lương thực, thực phẩm trong chính sách đô thị ở các nước châu Á mới nổi cần nhiều thử nghiệm, học tập, và trao đổi. Mặc dù số lượng ngày càng nhiều kinh nghiệm quốc tế về quy hoạch và chính sách thực phẩm đô thị chắc chắn sẽ cung cấp thông tin cho các chiến lược và quyết định ở châu Á, những kinh nghiệm này không nên được xem như giải pháp chìa khóa trao tay. Nhiều kinh nghiệm được ghi nhận đầy đủ trong lĩnh vực này diễn ra ở các thành phố có mô hình nhân khẩu học, điều kiện kinh tế xã hội, văn hóa ẩm thực, và hệ thống chính trị và hành chính rất khác so với các thành phố châu Á. Phương pháp đã có hiệu quả ở những nơi khác có thể cần được điều chỉnh, đặc biệt là để áp dụng cho những thành phố vừa và nhỏ mới nổi, các khu định cư đô thị phi chính thức, và khu vực thực phẩm phi chính thức của châu Á. THỰC PHẨM VÀ CÁC THÀNH PHỐ CHÂU Á: THÁCH THỨC VÀ CƠ HỘI Các thành phố châu Á có một số đặc điểm khác biệt làm tăng nhu cầu về các chính sách thực phẩm toàn diện và hướng tới tương lai hơn, đồng thời tạo ra những thách thức to lớn để các thành phố thực hiện được điều này một cách hiệu quả. Những đặc điểm này liên quan đến nhân khẩu học, chế độ ăn an toàn và chất lượng, cạnh tranh về tài nguyên thiên nhiên, cấu trúc và hạ tầng thị trường lương thực, thực phẩm. TÓM TẮT TỔNG QUAN xvii Châu Á mới nổi đang trải qua một quá trình đô thị hóa với quy mô và tốc độ chưa từng có trong lịch sử. Riêng tăng trưởng dân số đô thị ở châu Á từ năm 2000 đã lớn hơn toàn bộ quy mô dân số đô thị của Tây Âu hay Bắc Mỹ. Đến năm 2015, châu Á có dân số đô thị là 2,11 tỷ người, chiếm hơn một nửa dân số đô thị trên thế giới. Trong tương lai, từ năm 2020 đến năm 2050, dân số đô thị dự kiến sẽ tăng thêm 20% ở Đông Á, 58% ở Đông Nam Á, và 81% ở Nam Á. Tăng trưởng và phát triển đô thị không chỉ giới hạn ở các thủ đô hoặc các đô thị lớn. Trên thực tế, các thành phố có dân số từ 500.000 đến 1 triệu người và từ 1 đến 5 triệu người đang tăng trưởng với tốc độ nhanh hơn cả các siêu đô thị. Các thị trấn nhỏ và vệ tinh cũng đang tăng trưởng với tốc độ nhanh chóng. Một yếu tố nhân khẩu học khác cần lưu ý là vai trò nổi bật của di cư từ nông thôn ra thành thị. Một tỷ lệ lớn dân cư thành thị mới trước đây là nông dân, và hiện hầu như chỉ mua thực phẩm trên thị trường. Ở nhiều thành phố châu Á, đa số người di cư không tìm được việc làm trong khu vực chính thức, thay vào đó họ kiếm kế sinh nhai trong khu vực kinh tế phi chính thức, đặc biệt là thông qua các hình thức dịch vụ hoặc buôn bán thực phẩm. Trong khi thu nhập bình quân đầu người ở các thành phố châu Á có xu hướng cao hơn ở vùng nông thôn, số lượng rất lớn cư dân đô thị là dân nghèo, không được đảm bảo về lương thực, và thiếu cơ hội tiếp cận các dịch vụ cơ bản. Khoảng 535 triệu cư dân đô thị châu Á sống trong các khu định cư không chính thức. Con số này chiếm 70% dân số thế giới hiện sống trong các khu ổ chuột. Đối mặt với tình trạng thu nhập thấp hoặc không ổn định, tỷ lệ lớn dân nghèo thành thị châu Á không được bảo đảm về lương thực, dù đo lường bằng nhận thức hay bằng chỉ số suy dinh dưỡng kinh niên. Khảo sát năm 2016 của Tổ chức Nông lương Liên hợp quốc (FAO) cho thấy tỷ lệ cao hơn của cư dân đô thị so với cư dân nông thôn ở châu Á có tình trạng thiếu an ninh lương thực từ vừa phải đến nghiêm trọng. Đối với toàn bộ khu vực, khoảng 23% cư dân đô thị cho biết có tình trạng thiếu an ninh lương thực. Suy dinh dưỡng mãn tính cũng phổ biến ở các đô thị châu Á và đặc biệt ở Nam Á. Hơn 1/4 số trẻ em dưới 5 tuổi bị thấp còi ở các đô thị Bangladesh, Bhutan, Ấn Độ, Lào, Nepal và Pakistan. Và trong toàn khu vực, tỷ lệ thấp còi của dân nghèo thành thị (nhóm ngũ phân vị thu nhập thấp nhất) tương đương hoặc cao hơn tỷ lệ thấp còi của dân nghèo nông thôn. Môi trường đô thị châu Á có thể đang tạo ra một cơn bão hoàn hảo khiến tình trạng suy dinh dưỡng kép trở nên mạnh mẽ. Suy dinh dưỡng ở trẻ em không chỉ gắn với một loạt các bất lợi đến tận tuổi trưởng thành, mà còn cho thấy tình trạng gia tăng khuynh hướng các bệnh mãn tính liên quan đến chế độ ăn. Rủi ro đó được cho là sẽ tăng lên khi những người bị ảnh hưởng tiếp xúc với môi trường thực phẩm dễ gây béo phì hoặc không lành mạnh theo cách khác. Mặc dù đây không phải là vấn đề riêng của các thành phố, những môi trường như vậy dường như đang dần trở thành đặc điểm của quá trình đô thị hóa ở châu Á. Các yếu tố góp phần gây ra tình trạng này có thể bao gồm thói quen ăn uống bên ngoài phổ biến, tiêu thụ nhiều thực phẩm nguồn gốc động vật và thực phẩm chế biến quá mức, sự sẵn có và quảng cáo rộng rãi thực phẩm không lành mạnh, và ít cơ hội tiếp cận sản phẩm tươi sống do hạn chế về kho vận, thất thoát sản phẩm, và thành kiến chính sách. Ô nhiễm không khí và phát triển hạ tầng cũng khiến một số thành phố châu Á không có không gian đi bộ, làm gia tăng các vấn đề sức khỏe do chế độ ăn. Năm 2017, tỷ lệ tử vong do rủi ro về chế độ ăn ở mức 30% ở Đông Á, 22% ở Đông Nam Á, và 19% ở Nam Á. Mức độ thừa cân và béo phì đang gia tăng ở các quốc nói chung, tuy nhiên tỷ lệ béo phì ở khu vực thành thị có xu hướng cao hơn gấp ba hoặc bốn lần so với khu vực nông thôn. Khu vực thành thị Châu Á cũng đang nổi lên như điểm nóng lớn trên toàn cầu liên quan đến an toàn thực phẩm. Các vụ ngộ độc thực phẩm được báo cáo hay xảy ra ở khu vực thành thị – thường là ở các trường học, nhà hàng, và căng tin nơi làm việc – nhưng cũng chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong số lượng thực các ca bệnh do thực phẩm gây ra. Người dân thành thị ở châu Á đặc biệt dễ bị tổn thương do nhanh chóng tiếp nhận thực phẩm có nguồn gốc động vật và thực phẩm công thức, cùng với thói quen ăn uống bên ngoài, và liên tục phụ thuộc vào các kênh bán hàng truyền thống với hạ tầng và giám sát hạn chế đối với nhiều mặt hàng thực phẩm dễ hỏng. Trong khi bức tranh thực chứng còn chưa hoàn chỉnh, số lượng lớn các cuộc khảo sát ở địa phương cho thấy tỷ lệ ô nhiễm thực phẩm tương đối cao tại các chợ thực phẩm tươi sống và thức ăn đường phố phổ biến ở châu Á. Theo một nghiên cứu gần đây của Ngân hàng Thế giới, châu Á mới nổi chiếm gần 2/3 tổn thất năng suất ước tính do thực phẩm không an toàn ở các nước đang phát triển. Vì nhiều lý do, khu vực thành thị có khả năng chiếm tỷ trọng lớn hơn hẳn về tổn thất này. xviii THỰC PHẨM TỐT, THÀNH PHỐ AN TOÀN Mở rộng đô thị là nguyên nhân chính dẫn đến mất đất canh tác ở châu Á và hiện đang đặt ra mối đe dọa hiện hữu đối với nông nghiệp ven đô – nguồn cung cấp dẫn đầu về rau quả tươi quan trọng về dinh dưỡng cho nhiều thành phố. Chỉ riêng ở Trung Quốc, gần 4,3 triệu ha đất canh tác được chuyển đổi thành đất xây dựng trong giai đoạn 1987 – 2010. Chuyển đổi trên quy mô lớn cũng diễn ra ở Thái Lan, Việt Nam và Ấn Độ, cũng như Nhật Bản và Hàn Quốc. Một nghiên cứu ước tính rằng từ năm 2000 đến năm 2030, châu Á sẽ mất từ 16 đến 21 triệu ha đất canh tác do mở rộng đô thị. Phần lớn diện tích đất canh tác bị mất là đất có chất lượng rất cao (thường có hệ thống tưới tiêu), với chất lượng đất là một trong những yếu tố lịch sử khiến các thành phố được thiết lập hoặc phát triển mạnh ở những địa điểm cụ thể đó. Việc hấp thụ đất nông nghiệp ở các thành phố mới nổi hầu hết không theo quy hoạch và được thúc đẩy bởi lợi ích kinh tế có khuôn khổ hạn hẹp. Việc ra quyết định manh mún theo từng dự án diễn ra cùng với các giao dịch không chính thức và thường mang tính đầu cơ. Việc chuyển đổi đất ven đô này có thể có những tác động sâu rộng. Ví dụ, chuyển đổi đất có thể có tác động tiêu cực đối với sức khỏe cộng đồng ở những nơi mà hệ thống hậu cần kém phát triển chưa sẵn sàng hỗ trợ nối dài chuỗi cung ứng sản phẩm tươi sống. Trong một số trường hợp, mất đất canh tác ở các vùng ven đô có thể đe dọa làm suy giảm thành tựu an ninh lương thực quốc gia đã đạt được trong những thập kỷ gần đây. Việc mất đất ven đô cũng có khả năng làm sâu thêm dấu ấn môi trường chung của hệ thống lương thực do nhu cầu ngày càng tăng đối với đất canh tác còn lại. Ở một số nơi trong khu vực, tình trạng này đã đẩy nhanh việc tăng cường hoạt động canh tác trên đất có hiệu suất thấp và chuyển đổi cảnh quan tự nhiên. Do đó, số phận hiện tại và tương lai của đất nông nghiệp ven đô có thể có ý nghĩa đáng kể đối với các quốc gia, và khả năng này cho thấy cần có các chiến lược và chính sách rõ ràng và nhất quán từ trung ương đến địa phương. Mặc dù nhiều thành phố châu Á đã hiện đại hóa, các kênh phân phối truyền thống và không chính thức vẫn tiếp tục đóng vai trò quan trọng trong cung ứng thực phẩm. So với các quốc gia có cùng mức thu nhập bình quân đầu người ở các khu vực khác, các quốc gia châu Á có xu hướng có tỷ lệ thâm nhập siêu thị thấp hơn. Và hầu hết các siêu thị và cửa hàng bán lẻ hiện đại khác như cửa hàng tiện lợi ở các thành phố Châu Á có xu hướng chủ yếu bán thực phẩm đóng gói và chế biến sẵn. Ở hầu hết các thành phố châu Á, chợ truyền thống, thường được gọi là “chợ bán đồ tươi sống,” tiếp tục chiếm tỷ trọng lớn nếu không muốn nói là chủ yếu cung cấp nguồn thực phẩm tươi sống, bao gồm rau, cá, thịt và trứng, tới người tiêu dùng. Các thành phố lớn vẫn có hàng trăm khu chợ như vậy, mặc dù thường chỉ có một tỷ lệ nhỏ trong số đó được nâng cấp cơ sở vật chất để giải quyết các vấn đề về vệ sinh hoặc môi trường. Các hộ gia đình với thu nhập cao hơn có điều kiện hơn về phương tiện cơ giới và tủ lạnh có xu hướng mua sắm ít thường xuyên hơn và mua thực phẩm ở siêu thị nhiều hơn. Tuy nhiên, phần lớn dân số ở hầu hết các thành phố vẫn dựa vào chợ cộng đồng và người bán hàng truyền thống do vị trí thuận tiện, sản phẩm tươi đa dạng hơn, giá cả hợp lý và linh hoạt hơn, và các ưu điểm khác. Từ góc độ thành phố, tình trạng này mang lại cả thuận lợi và khó khăn. Một mặt, sự đa dạng của chợ cộng đồng tạo cơ sở để có hệ thống lương thực bao trùm, vì chợ có vị trí thuận tiện để người tiêu dùng tiếp cận và giúp hỗ trợ sinh kế cho số lượng lớn người dân. Mặt khác, sự phổ biến của hệ thống phân phối thực phẩm không chính thức và bán chính thức tạo ra thách thức đối với hoạt động giám sát của cơ quan quản lý và có thể mâu thuẫn với các mục tiêu và kế hoạch khác của thành phố, bao gồm việc sử dụng đất đô thị cho các mục đích khác và việc phát triển các tuyến đường cao tốc. Đại dịch COVID–19 đã bộc lộ sự mong manh của hệ thống lương thực – thực phẩm đô thị trên khắp châu Á mới nổi, khiến nhiều người dân thành thị khó tiếp cận và giảm khả năng chi trả đối với các loại thực phẩm thiết yếu và giàu dinh dưỡng. Nhiều thành phố đã trải qua gián đoạn nguồn cung từ nông thôn đến thành thị và gián đoạn hậu cần, việc đóng cửa tạm thời hoặc kéo dài các chợ, trường học, căng tin cơ quan, và các địa điểm khác quan trọng đối với nguồn cung thực phẩm ở thành thị, và làm trầm trọng thêm lo ngại về an toàn vệ sinh thực phẩm. Ở nhiều thành phố, sinh kế của hàng chục nghìn người tham gia dịch vụ ăn uống và giao hàng thực phẩm cũng bị gián đoạn đáng kể. Trong khi tác động của đại dịch vẫn đang diễn ra và còn quá sớm để đưa ra kết luận cuối cùng, có vẻ như sự tồn tại từ trước đó của chính sách, quản trị, và giám sát nhất quán đối với hệ thống thực phẩm đã giúp cải thiện năng lực ứng phó của các thành phố trước những thách thức liên quan đến thực phẩm do đại dịch gây ra. TÓM TẮT TỔNG QUAN xix Trong khi những yếu tố trên chủ yếu chỉ ra thách thức của hệ thống lương thực – thực phẩm mà các nhà quy hoạch và quản lý đô thị phải đối mặt, nền kinh tế thực phẩm đô thị của châu Á mới nổi cũng là cơ hội kinh doanh to lớn. Theo một nghiên cứu của Viện Brookings, gần 90% trong số hàng tỷ người mới gia nhập tầng lớp trung lưu sẽ ở châu Á. Phần lớn trong số họ là cư dân của các thành phố ở các quốc gia Châu Á mới nổi. Mặc dù mô hình chi tiêu ngày càng tăng của nhóm người tiêu dùng này có liên quan đến tỷ lệ cao hơn các mặt hàng phi thực phẩm, chi tiêu cho thực phẩm cũng sẽ tăng lên và chuyển hướng từ thực phẩm giá rẻ sang thực phẩm có nguồn gốc động vật và thực phẩm chế biến, trái cây và rau quả, và ăn uống bên ngoài. Những chuyển dịch trong mô hình tiêu dùng này đã diễn ra trong 10 – 15 năm qua, đặc biệt là ở các khu vực đô thị của châu Á. Tuy nhiên, trong tương lai, nông dân, công ty thực phẩm, và nhiều nhà cung cấp dịch vụ hỗ trợ sẽ có cơ hội vô cùng to lớn khi đáp ứng được – và tạo ra – nhu cầu, sở thích, và kỳ vọng mới của người tiêu dùng thành thị, bao gồm sự đa dạng, thuận tiện, phù hợp, và an toàn thực phẩm.. HIỆN TRẠNG CỦA CHÍNH SÁCH LƯƠNG THỰC – THỰC PHẨM ĐÔ THỊ Ở CHÂU Á Hiện chưa có đánh giá nào mang tính hệ thống hoặc so sánh về thực trạng của chính sách thực phẩm đô thị ở Châu Á. Các nghiên cứu tình huống riêng lẻ cung cấp những hiểu biết hữu ích về phạm vi hành động và thách thức khi thực hiện. Nhưng những nghiên cứu này mới vẽ ra bức tranh một phần và chưa cân xứng về bối cảnh chính sách khu vực, và bức tranh đó mang lại rất ít thông tin về kinh nghiệm và thực tế của các thành phố cấp hai và cấp ba. Mặc dù chỉ là bước khởi đầu, những phản hồi thu được từ 170 thành phố ở 21 quốc gia châu Á tham gia khảo sát trong nghiên cứu này cung cấp cái nhìn mới và tổng quan hơn về hiện trạng chính sách thực phẩm đô thị trong khu vực. Thật vậy, mặc dù chưa mang tính đại diện hay toàn diện, những câu trả lời được tiếp nhận từ tập hợp đa dạng các thành phố về một loạt các chủ đề liên quan đến hệ thống lương thực – thực phẩm. Cuộc khảo sát thu thập thông tin về nhận thức của nhiều lãnh đạo thành phố về các vấn đề và cơ hội liên quan đến lương thực, thực phẩm, nhiệm vụ và hạn chế của các thành phố trong việc tham gia, cũng như các chiến lược, chính sách và chương trình liên quan đến lương thực, thực phẩm. 170 thành phố tham gia khảo sát cũng đa dạng về quy mô và mức độ phát triển. Khoảng 40% có chưa tới 200.000 dân, 30% có từ 200.000 đến 1 triệu dân và 30% có trên 1 triệu dân. Một nửa số thành phố tham gia khảo sát ở các quốc gia thu nhập trung bình thấp, 25% ở các quốc gia thu nhập trên trung bình, 20% ở các quốc gia thu nhập thấp, và 5% ở các quốc gia thu nhập cao. Chính sách và chương trình liên quan đến lương thực – thực phẩm ở các thành phố Châu Á có khác biệt về số lượng, quy mô, trọng tâm, và cách tiếp cận, tuy nhiên tập trung mạnh mẽ vào việc điều tiết nông nghiệp và phân phối lương thực ở đô thị và ven đô. Có khác biệt thú vị giữa các thành phố có quy mô khác nhau. Trong khi một số can thiệp tương đối phổ biến (hoặc hiếm) ở các thành phố thuộc mọi quy mô, một số công cụ chính sách như kiểm soát giá lương thực và chương trình dự phòng thiếu lương thực chỉ xuất hiện ở các thành phố lớn. Cũng có một số điểm khác biệt rõ rệt giữa các quốc gia. Ví dụ, ngân hàng thực phẩm phân phối lại trái cây và rau quả cho những người dễ bị tổn thương khá phổ biến ở các thành phố của Ấn Độ nhưng hầu như không xuất hiện ở những nơi khác. Việc cung cấp hỗ trợ kỹ thuật và tài chính trực tiếp cho hoạt động nông nghiệp đô thị khá phổ biến ở các thành phố của Indonesia, Nepal, Philippines và Việt Nam, nhưng không phổ biến ở Thái Lan hoặc Ấn Độ, nơi việc phân vùng đất nông nghiệp hầu như cản trở canh tác đô thị trên đất phi nông nghiệp. Sự tham gia của chính phủ vào thị trường bán buôn thực phẩm rất phổ biến ở Trung Quốc, Ấn Độ và Việt Nam, nhưng không phổ biến ở các nền kinh tế châu Á mới nổi khác. Nhìn chung, hầu như chưa có sự tập trung vào các chương trình nhằm tác động đến việc tiếp cận của người tiêu dùng với thực phẩm bổ dưỡng và tốt cho sức khỏe. Kết quả khảo sát được sử dụng để đánh giá mức độ chủ động, toàn diện và bao trùm của các chính sách liên quan đến lương thực, thực phẩm của các thành phố. Các câu trả lời khảo sát được chấm điểm để xem xét công tác liên quan đến thực phẩm của các thành phố – kế hoạch, chẩn đoán, quy định, sáng kiến và quy trình – từ ba khía cạnh của thông lệ tốt này. Chính sách tổng thể của các thành phố được coi là chủ động khi chính sách hướng đến các vấn đề hoặc cơ hội trong tương lai; toàn diện khi chính sách có phạm vi đa ngành và được phối hợp giữa nhiều đơn vị; và bao trùm khi chính sách quan tâm đến phúc lợi của người nghèo hay xx THỰC PHẨM TỐT, THÀNH PHỐ AN TOÀN nói cách khác là những người tiêu dùng và người cung cấp thực phẩm dễ bị tổn thương, và có sự tham gia rộng rãi của các bên liên quan đa dạng. Ngược lại với những thông lệ tốt này là việc chỉ ứng phó với các vấn đề của hệ thống lương thực – thực phẩm; giải quyết một tập hợp nhỏ các vấn đề về hệ thống thực phẩm và làm một cách manh mún với sự phối hợp hành chính ở mức hạn chế; và ra quyết định từ “trên xuống” mà chỉ có sự tham gia hạn chế hoặc tập trung của các bên liên quan. Phân tích so sánh ba chiều này được sử dụng để phân loại các thành phố thuộc một trong bốn nhóm, từ thụ động đến thông minh về thực phẩm. Các nhóm này nhằm chỉ ra “khoảng cách tới trình độ tiên phong” của các thành phố về chính sách và quản trị thực phẩm đô thị tốt: ƒƒ Có thể đạt được “trình độ tiên phong” khi các thành phố theo đuổi hệ thống lương thực – thực phẩm theo phương thức chủ động, toàn diện, và bao trùm cao. Những thành phố áp dụng phương pháp này được phân loại là thành phố thông minh về thực phẩm. Điều này không có nghĩa là những thành phố này đã giải quyết được hoàn toàn những thách thức liên quan đến lương thực hoặc hiện thực hóa được đầy đủ tiềm năng của nền kinh tế lương thực – và thậm chí trình độ tiên phong cũng không có tính cố định. Cuộc đua hướng tới chính sách lương thực tốt giống như cuộc chạy marathon – không có vạch đích – hơn là chạy nước rút. ƒƒ Ở đầu kia của dải xếp hạng, những thành phố bị coi là có chính sách lương thực thụ động chủ yếu ứng phó với các vấn đề về lương thực – thực phẩm và cố gắng giảm thiểu tác động bất lợi của những vấn đề này thay vì hành động để phòng ngừa hay tận dụng các cơ hội mới nổi – thường là do thiếu thẩm quyền, năng lực, hoặc cam kết chính trị trong việc cải thiện kết quả của hệ thống lương thực – thực phẩm. ƒƒ Những thành phố có chính sách lương thực tiến thêm một bước so với “thụ động” được gọi là đang triển khai. Những thành phố này đã chủ động triển khai một số cấu phần của hệ thống thực phẩm và đã bắt đầu có được hợp lực trong một số can thiệp, nhưng vẫn tiếp tục ứng phó bị động đối với nhiều vấn đề của hệ thống lương thực – thực phẩm. ƒƒ Cuối cùng, tiến một bước so với những thành phố đang triển khai – và sau một bước so với thành phố thông minh về thực phẩm – là thành phố có chính sách được coi là tiến bộ. Những thành phố này có xu hướng hướng đến tương lai nhưng hệ thống lương thực – thực phẩm có xu hướng ít toàn diện hoặc kém bao trùm hơn đáng kể so với những thành phố đạt được chính sách thông minh về thực phẩm. Ở nhiều thành phố có chính sách lương thực tiến bộ, việc thực hiện chậm hơn so với mức độ tham vọng rõ ràng trong kế hoạch. Dựa trên phân tích này, gần 3/4 số thành phố trả lời khảo sát đang ở giai đoạn tương đối sớm trong quá trình xây dựng và áp dụng các chính sách lương thực chủ động, toàn diện và bao trùm. Trong số 170 thành phố tham gia khảo sát, 49 thành phố, tương đương 29%, thuộc nhóm thành phố thụ động. Hầu hết các thành phố tham gia khảo sát, tức là 75 thành phố hay 44%, tiến thêm một bước để thuộc nhóm đang triển khai. Đối với phần lớn các thành phố thuộc hai nhóm này, các vấn đề liên quan đến thực phẩm vẫn chưa được lồng ghép vào quy hoạch phát triển và quản lý đô thị tổng thể hơn. Trong số các thành phố có dưới 3 triệu dân – nghĩa là, trong số tất cả các thành phố trừ những thành phố lớn nhất tham gia khảo sát – hầu hết đều ở giai đoạn đầu triển khai hệ thống lương thực – thực phẩm: 76% số thành phố quy mô rất nhỏ đến vừa (dân số <1 triệu) và 69% số thành phố lớn (dân số 1–3 triệu). Một số thành phố thủ phủ của khu vực cũng thuộc nhóm thụ động, mặc dù hầu hết được coi là đang triển khai. Chỉ có 8% trong số 170 thành phố tham gia khảo sát được coi là thông minh về thực phẩm, là những thành phố được đánh giá tốt nhất. Có các thành phố thuộc mọi quy mô đại diện trong nhóm cao nhất này, nhưng không thành phố nào trong nhóm này thuộc một quốc gia có thu nhập thấp. Gần 1/5 số thành phố đạt tiêu chuẩn tiến bộ. Trong khi kết quả này thể hiện rõ mô hình và chỉ ra một số ngoại lệ thú vị, những kết quả khảo sát này xác nhận chung về giả thuyết trước khi tiến hành nghiên cứu rằng nhiều thành phố ở châu Á mới nổi đang tụt hậu so với các thành phố khác ở khu vực khác về việc khởi xướng và hoạt động của chính sách lương thực – thực phẩm. TÓM TẮT TỔNG QUAN xxi CÁC THÀNH PHỐ CHÂU Á CÓ THỂ LÀM ĐƯỢC NHIỀU HƠN Ngay cả khi đối mặt với những hạn chế về thẩm quyền và nguồn lực, các thành phố châu Á vẫn có thể làm được nhiều việc hơn nữa để cải thiện quỹ đạo và kết quả của hệ thống lương thực. Còn nhiều không gian để hành động, và các cơ quan chức năng và tổ chức khác có thể gây ảnh hưởng đối với các cấu phần khác nhau của hệ thống thực phẩm đô thị theo rất nhiều cách. Các cơ quan này cũng có thể gây ảnh hưởng vì những lý do khác nhau. Dưới đây là tóm tắt ngắn gọn một loạt những động cơ và phương pháp tiếp cận bao gồm bốn nhóm can thiệp chung: những can thiệp liên quan đến quản trị hệ thống lương thực – thực phẩm đô thị tổng thể, và những can thiệp khác hướng đến người tiêu dùng, hệ thống tiếp thị thực phẩm, và sản xuất cơ bản. Xây dựng nền tảng quản trị hệ thống thực phẩm cấp thành phố Những lý do tiềm tàng để thực hiện quản trị hệ thống thực phẩm đô thị: ŠŠ Tạo không gian và phát triển năng lực trong nội bộ chính quyền để xem xét một cách có hệ thống các vấn đề liên quan đến lương thực – thực phẩm trên nhiều lĩnh vực trong hoạch định chính sách. ŠŠ Triển khai hệ thống thực phẩm đô thị một cách có chiến lược và chủ động. ŠŠ Điều phối và kết nối các bên liên quan khác nhau trong hệ thống thực phẩm. ŠŠ Có thêm góc nhìn về tác động của các chính sách khác nhau đối với hệ thống lương thực–thực phẩm, và những đánh đổi tiềm tàng là hệ quả của hệ thống thực phẩm hoặc các can thiệp khác. ŠŠ Tạo điểm liên lạc để thành phố kết nối với các bên liên quan ngoài thành phố về các vấn đề của hệ thống thực phẩm, bao gồm các cấp cao hơn thuộc chính phủ và mạng lưới xuyên địa phương. Các thành phố có thể đóng vai trò tiên phong một cách tự nhiên về quản trị hệ thống thực phẩm trong bối cảnh đô thị hóa nhanh chóng. Vì nhiều lý do về nhân khẩu học, chính trị, và kinh tế, các thành phố đang là chủ đề nổi trội trong tranh luận về chính sách lương thực và ngày càng cần và được kỳ vọng sẽ đảm nhận vai trò tiên phong trong quản trị hệ thống lương thực. Các thành phố đang ở vị trí đi đầu trong quá trình chuyển đổi sang, hoặc ít nhất là giúp thiết lập hệ thống thực phẩm lành mạnh và bền vững hơn – và thực hiện được như vậy thông qua cách tiếp cận chính sách có tính cộng tác và toàn diện hơn. Những cách tiếp cận đó được nhiều thành phố ngầm xem là tốt hơn so với cách tiếp cận truyền thống, tập trung, và từ trên xuống nhằm đặt giá trị của kết quả kinh tế, sức khỏe cộng đồng, công bằng xã hội, và toàn vẹn sinh thái trên nền tảng bình đẳng hơn. Cách tiếp cận như vậy cũng được coi là cách các thành phố dễ tiếp cận hơn, ở mức độ thành phố có thể kề cận với cộng đồng và linh hoạt về hành chính hơn so với các cấp chính quyền cao hơn. Thành phố có thể là cấp chính quyền có năng lực tốt nhất để xây dựng và thực sự theo đuổi chính sách lương thực toàn diện – nỗ lực của chính quyền trung ương theo hướng này chưa tiến xa hơn giai đoạn thiết lập nghị trình. Các thành phố thuộc mọi quy mô và với mọi phương tiện đều quan tâm đến việc thiết lập cơ cấu quản trị hệ thống lương thực – thực phẩm ngay từ sớm, bất kể độ sâu và phạm vi của những can thiệp muốn thực hiện. Mặc dù cấu trúc quản trị hệ thống lương thực – thực phẩm không cần phải có trước hành động của thành phố, việc tư duy thận trọng về quản trị hệ thống lương thực – thực phẩm có thể giúp các thành phố thiết lập phạm vi can thiệp, thiết lập sự minh bạch về cách thức khu vực nhà nước can thiệp vào hệ thống lương thực – thực phẩm, và sắp xếp nguồn lực nhà nước phù hợp một cách chiến lược với các ưu tiên. Quyết định can thiệp dù ở mức tối thiểu còn tốt hơn là không có quyết định rõ ràng và có thể giúp hạn chế chi phí của can thiệp đối với hệ thống lương thực – thực phẩm ở các thành phố đang có nhiều ưu tiên cạnh tranh lẫn nhau. Trường hợp có rủi ro về hệ thống lương thực – thực phẩm, hành động phòng ngừa có thể giúp giảm thiểu chi tiêu của thành phố đối với các thách thức của hệ thống thực phẩm – một ví dụ là nhu cầu ứng phó với các vi phạm rõ ràng về an toàn thực phẩm. Ngày càng nhiều kinh nghiệm quốc tế, đặc biệt là ở các quốc gia có thu nhập trung bình và trung bình cao, chỉ ra những bước quan trọng có thể được thực hiện để thiết lập quản trị hệ thống lương thực – thực phẩm. Những bước này bao gồm (a) chính thức hóa chính sách thực phẩm thành lĩnh vực trọng tâm của thành phố thông qua luật pháp và chiến lược; (b) xác định trách nhiệm thể chế; (c) xác định các ưu tiên của thành phố, các phương thức can thiệp, và theo dõi kết quả hoạt động; (d) huy động nguồn lực công cho tất cả những hoạt động này; xxii THỰC PHẨM TỐT, THÀNH PHỐ AN TOÀN và (e) tham gia hoặc tạo ra mạng lưới các thành phố xuyên địa phương chia sẻ kinh nghiệm và trách nhiệm giải trình trong lĩnh vực quản trị hệ thống lương thực – thực phẩm, như Hiệp ước Chính sách Thực phẩm Đô thị Milan. Mặc dù không có sắp xếp thể chế duy nhất nào nổi trội để điều chỉnh chính sách thực phẩm ở cấp thành phố, nhưng nhiều nếu không muốn nói là hầu hết các thành phố quan tâm đến quản trị hệ thống thực phẩm đã giao cho một cơ quan đầu mối, là cơ quan mới hoặc có sẵn, để giám sát cơ cấu quản trị mạng lưới liên quan đến một loạt các cơ quan hành chính. Hầu hết các cấu trúc này cũng thu hút sự tham gia của các bên liên quan trong hệ thống thực phẩm phi chính phủ. Ở các khu vực đô thị lớn, các tổ chức tham gia cơ cấu quản trị hệ thống thực phẩm có thể bao gồm nhiều đơn vị hành chính hoặc khu vực pháp lý tiếp giáp hoặc kế tiếp nhau về địa lý. Cũng như trong các lĩnh vực chính sách khác, các ưu tiên của hệ thống lương thực – thực phẩm có thể được thiết lập thông qua sự kết hợp của việc thu thập và phân tích dữ liệu cũng như tham vấn và tham gia của cộng đồng. Nhấn mạnh vào sự tham gia sâu của cộng đồng – bao gồm cả khu vực doanh nghiệp và công dân – là đặc điểm chung của cách thức triển khai chính sách thực phẩm của các thành phố gần đây. Mặc dù trọng tâm này phản ánh thông lệ mới tốt nhất về chính sách và thiết kế chương trình, tình trạng phụ thuộc vào đóng góp của cộng đồng trong lĩnh vực chính sách thực phẩm của thành phố rõ ràng cũng phản ánh thiếu hụt lớn về dữ liệu mà hầu hết các thành phố phải đối mặt khi đo lường hiện trạng hệ thống thực phẩm. Không bao giờ là quá sớm để các thành phố bắt đầu thu thập dữ liệu hỗ trợ mô tả cơ bản về hệ thống lương thực – thực phẩm của thành phố, và theo thời gian, việc đánh giá về mức độ hoạt động của hệ thống lương thực – thực phẩm sẽ ngày càng trở nên hoàn thiện. Can thiệp hạ nguồn liên quan trực tiếp nhất đến người tiêu dùng thành thị Những lý do tiềm tàng để tương tác với người tiêu dùng thực phẩm thành thị: ŠŠ Mang lại hình thái dinh dưỡng tốt hơn giúp ngăn ngừa sự gia tăng chi phí tốn kém cho những căn bệnh mãn tính liên quan đến chế độ ăn uống ŠŠ Hỗ trợ người tiêu dùng tránh thực phẩm không an toàn cũng như những tác động tiêu cực của nó đối với sức khỏe ŠŠ Xóa bỏ tình trạng suy dinh dưỡng để đảm bảo công bằng xã hội, ổn định xã hội, và sức khỏe của nền kinh tế ŠŠ Đảm bảo bảo trợ xã hội cho các nhóm dân cư thành thị dễ bị tổn thương thông qua các mạng lưới an toàn hiệu quả ŠŠ Thúc đẩy tiêu dùng thân thiện với môi trường để giảm ngoại tác môi trường của hệ thống thực phẩm ŠŠ Thúc đẩy các lựa chọn thực phẩm có tác dụng hỗ trợ nền kinh tế thực phẩm địa phương. Các thành phố ở châu Á đang có những cơ hội lớn để định hình môi trường thực phẩm và gây ảnh hưởng đến lựa chọn thực phẩm và mô hình chế độ ăn của người tiêu dùng. Các thành phố có thể tận dụng sự kề cận với dân cư đô thị – với cộng đồng – để xây dựng các can thiệp phù hợp, có tính thích ứng, lấy người dùng làm trung tâm, và hỗ trợ trực tiếp nhu cầu của người tiêu dùng. Các thành phố có thể sử dụng kỹ thuật tiếp thị xã hội, áp dụng các giải pháp tài chính, và cũng gây ảnh hưởng trực tiếp đến lựa chọn hoặc mô hình chế độ ăn bằng cách tác động đến cách thức các tổ chức công như trường học, bệnh viện, và căng–tin nơi làm việc thực hiện mua sắm và chuẩn bị thực phẩm. Một cách để các thành phố có thể tăng cường cơ hội tiếp cận và tiêu thụ thực phẩm lành mạnh là đào tạo và tập huấn cho người dân thực hành tốt hơn. Các thành phố không chỉ thông tin cho cư dân về chế độ ăn và chế độ dinh dưỡng tốt cho sức khỏe, mà còn giúp người dân áp dụng kiến thức đó vào thực tế bằng cách cung cấp những công cụ cần thiết để mua sắm với giá cả hợp lý, tiếp cận các chương trình an toàn thực phẩm khi phù hợp, nấu và trữ thực phẩm bổ dưỡng, lành mạnh, và an toàn, v.v. Khi phù hợp, các nỗ lực cần hướng tới mọi người tiêu dùng thành thị. Nhiều thành phố đang ở vị thế phù hợp để đưa giáo dục dinh dưỡng vào trường học và các chương trình giáo dục khác nhau. Các bậc cha mẹ mới có thể được hưởng lợi từ việc tìm hiểu về thực phẩm và cách cho trẻ sơ sinh ăn trong năm đầu tiên, và trẻ em được hưởng lợi từ việc học tập về lợi ích của việc ăn trái cây tươi và rau quả. Những người bị ảnh hưởng bởi bệnh mãn tính liên quan đến chế độ ăn có thể được hưởng lợi từ việc học cách quản lý hoặc đảo ngược các tình trạng cụ thể thông qua chế độ ăn. TÓM TẮT TỔNG QUAN xxiii Các thành phố cũng có thể thực hiện các giải pháp để thay đổi hành vi của người tiêu dùng mà có thể cần hoặc không cần đến kiến thức và nhận thức về sức khỏe dựa trên chế độ ăn. Bản thân kiến thức thường không đủ để thúc đẩy và khiến mọi người thay đổi cả những hành vi trong khả năng thực hiện của họ (về kinh tế và mặt khác), và trong một số bối cảnh, thói quen ăn uống không lành mạnh đã ăn sâu bởi văn hóa ẩm thực không lành mạnh và lợi ích thương mại gắn liền với những thói quen này. Để vượt qua thách thức này và những thách thức khác trong thay đổi hành vi, tiếp thị xã hội, xây dựng thương hiệu, và các can thiệp khác cần dựa trên các nguyên tắc tâm lý xã hội. Ví dụ, các chương trình học tích hợp kinh nghiệm thực tế về trồng cây thực phẩm có thể làm tăng sự chấp nhận hoặc quan tâm của trẻ em trong việc tiêu thụ trái cây và rau tươi. Các chương trình giảng dạy về dinh dưỡng có thể ít nhiều mang tính thực tiễn, tích hợp không chỉ khoa học dinh dưỡng mà còn cả mua sắm thực phẩm, kỹ năng nấu nướng, và các yếu tố xã hội khác. Những can thiệp hướng đến các tổ chức nhà nước hoặc tổ chức có ảnh hưởng đến công chúng trong phân phối thực phẩm có thể là cách thức quan trọng để các thành phố cải thiện sức khỏe dựa trên chế độ ăn. Những tổ chức này có tiềm năng tham gia mua, chuẩn bị, và cung cấp dịch vụ về thực phẩm, bao gồm trường học, bệnh viện, văn phòng, trường đại học, và nhà tù. Phạm vi tiếp cận rộng rãi tới người tiêu dùng của những tổ chức này mang lại khả năng ảnh hưởng trực tiếp đến chế độ ăn của nhiều người. Thêm vào đó, với số lượng lớn thực phẩm mà những tổ chức này tiêu thụ thì những thay đổi trong cách thực hành của họ cũng sẽ có thể lan tỏa sang hệ thống lương thực – thực phẩm một cách rộng rãi hơn. Hy vọng các yêu cầu đặt ra đối với các nhà cung cấp của các tổ chức nhà nước, như hạn chế sử dụng một số nguyên liệu nhất định, hoặc yêu cầu phải phục vụ trái cây tươi và các loại rau đậu, và đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng và an toàn thực phẩm, có thể giảm chi phí và các rào cản khác đối với việc nhân rộng ở những thị trường ít chuyên biệt hơn. Chính quyền thành phố có nhiều công cụ khác nhau để định hình hoạt động mua sắm thực phẩm của các tổ chức, bao gồm các quyết định điều hành liên quan đến chi tiêu thực phẩm, luật pháp và quy định, yêu cầu về hợp đồng và cấp phép, tài trợ có điều kiện, công nhận của công chúng, hoạt động hội họp, và giải thưởng. Các biến số bổ sung cho thiết kế chương trình bao gồm mức giá, thời gian, vị trí, và sự phổ biến của dịch vụ; tập trung vào các biện pháp thượng nguồn liên quan, ví dụ, đối với cơ sở nấu ăn và bảo quản, năng lực của nhân viên phục vụ thực phẩm, và quan hệ với nhà cung cấp; và bao gồm các giải pháp bổ sung về giáo dục và tiếp thị thực phẩm. Các thành phố cũng có thể khuyến khích người sử dụng lao động xây dựng các chương trình chăm sóc sức khỏe tại nơi làm việc để tăng cơ hội tiếp cận với thực phẩm lành mạnh và góp phần cho việc ăn uống lành mạnh. Những chương trình như vậy có thể góp phần quan trọng để bảo đảm nhân viên tiếp cận với các lựa chọn ăn uống lành mạnh trong giờ làm việc. Ví dụ, doanh nghiệp có thể bảo đảm để nhân viên có đủ thời gian ăn uống lành mạnh, trợ giá các lựa chọn thực phẩm lành mạnh để những thực phẩm này có mức giá hợp lý hơn và thậm chí hỗ trợ cho con bú theo nhiều cách khác nhau, cho phép các bà mẹ tuân thủ các phương pháp cho ăn được khuyến nghị. Các thành phố có thể cung cấp cho người sử dụng lao động những ưu đãi vật chất, hoặc giúp người sử dụng lao động thực hiện các chương trình bằng cách cung cấp cho họ hướng dẫn dinh dưỡng và biểu mẫu để giảm thiểu đầu tư ban đầu cần thiết để thực hiện các chương trình như vậy. Chính sách giá bao gồm cả chính sách thuế được coi là cách tiếp cận hiệu quả để giảm các yếu tố nguy cơ bệnh không truyền nhiễm như thuốc lá và chế độ ăn không lành mạnh, và các thành phố trên toàn thế giới đang áp dụng phương pháp này để thử nghiệm. Phạm vi can thiệp vào mức giá mà các thành phố có thể thực hiện đôi khi bị hạn chế do thẩm quyền hoặc năng lực đánh thuế hoặc ảnh hưởng theo cách khác đến chi phí thực phẩm. Điều đó cho thấy, các thành phố thuộc nhóm những địa phương đi đầu về đánh thuế thực phẩm – hay đúng hơn là thuế đồ uống, cùng song hành với một số chính phủ quốc gia. Thuế đồ uống đang làm giảm bệnh tật ở cấp độ dân số. Đồng thời, không thể kỳ vọng rằng loại thuế này (hoặc các loại thuế thực phẩm tiềm năng khác) có thể giải quyết các thách thức về chế độ ăn. Đối với một số vấn đề, bao gồm cả việc giải quyết các hình thức suy dinh dưỡng khác nhau ở các khu ổ chuột hoặc khu vực ít được phục vụ khác, các thành phố châu Á cần sẵn sàng tiến hành thử nghiệm. Các can thiệp về sức khỏe dựa trên chế độ ăn hướng đến cư dân của các khu ổ chuột dường như đối mặt với nhiều thách thức trong việc thực hiện do tính di động cao của đối tượng dân số mục tiêu, thiếu các dịch vụ xã hội có thể được tận dụng để quản lý các chương trình, và những người tham gia ít khi tiếp tục thực hiện. Bằng chứng về những can thiệp hiệu quả đối với sức khỏe dựa trên chế độ ăn ở các khu ổ chuột cũng rất hạn chế. xxiv THỰC PHẨM TỐT, THÀNH PHỐ AN TOÀN Mặc dù trẻ sơ sinh và trẻ em sống trong các khu ổ chuột có rủi ro cao bị suy dinh dưỡng và thấp còi, nhưng hầu như chưa có can thiệp phòng ngừa hướng đến những khu vực này ở các thành phố, và ở những thành phố đã có, những can thiệp cũng có phạm vi hạn chế. Hơn nữa, những khó khăn khi triển khai đặc biệt đối với các khu ổ chuột cũng khiến việc đánh giá can thiệp trở nên khó khăn vì việc thiếu hiệu quả chưa hẳn đã liên quan đến can thiệp cốt lõi mà là tình trạng chưa có đủ giải pháp dành riêng để quản lý hoạt động tiếp cận và duy trì người tham gia, và những thách thức khác của riêng các khu ổ chuột. Can thiệp liên quan đến tiếp thị và hậu cần thực phẩm đô thị Những lý do tiềm tàng để thực hiện hậu cần và tiếp thị thực phẩm đô thị: ŠŠ Giảm tắc nghẽn liên quan đến vận chuyển thức ăn. ŠŠ Tăng cường cơ hội tiếp cận thực phẩm an toàn, lành mạnh, và đáp ứng nhu cầu. ŠŠ Giảm thất thoát và lãng phí thực phẩm và quản lý các dòng chất thải hữu cơ và vô cơ. ŠŠ Đảm bảo bảo trợ xã hội đối với các nhóm dân cư thành thị dễ bị tổn thương thông qua các mạng lưới an toàn hiệu quả. ŠŠ Giảm tình trạng trốn thuế trong nền kinh tế lương thực phi chính thức. ŠŠ Quảng bá hình ảnh của thành phố về các khía cạnh như trật tự, hiệu quả, sạch sẽ, công bằng xã hội, nghèo đói, và rung cảm văn hóa. Tiếp thị và hoạt động hậu cần đối với thực phẩm là một trong những lĩnh vực chính mà các thành phố có lợi thế so sánh trong triển khai hệ thống lương thực – thực phẩm và có thể mang lại tác động đáng kể. Sự kết hợp của quy định, đầu tư, và giải pháp hỗ trợ khác có thể có tác động đáng kể đến sức khỏe cộng đồng, phát triển kinh doanh liên quan đến thực phẩm và sinh kế. Can thiệp có thể hướng đến nhiều đối tượng khác nhau, từ các cửa hàng tạp phẩm hoặc chuỗi cửa hàng tiện lợi tới quầy rau quả nhỏ độc lập, chợ thực phẩm tươi sống có tổ chức, cửa hàng thực phẩm độc lập, và các loại hình buôn bán thực phẩm khác hoạt động trong hoặc ngoài nền kinh tế chính thức. Tương tự, các biện pháp hỗ trợ và đầu tư có thể có nhiều hình thức. Các thành phố có thể sử dụng quy hoạch đô thị và các khoản đầu tư và quy định liên quan để gián tiếp định hình môi trường tiếp thị thực phẩm có tính hỗ trợ đối với chế độ ăn uống hợp lý và lành mạnh. Một số bối cảnh đô thị rõ ràng thuận lợi hơn những bối cảnh khác cho sự phát triển của các chuỗi thức ăn nhanh, cửa hàng tiện lợi, và mua đồ ăn sẵn mang đi, cũng như một số bối cảnh thuận lợi hơn cho sự phát triển của chợ truyền thống, cơ sở kinh doanh thực phẩm nhỏ, và các mô hình tụ tập xã hội và ăn uống. Ví dụ, độ rộng của đường phố là một đặc điểm của bối cảnh đô thị được cho là có ảnh hưởng đến tốc độ của dòng chảy giao thông, khả năng đi bộ, và cách thức sử dụng không gian, tất cả những đặc điểm có ảnh hưởng đến việc mua và tiêu dùng thực phẩm. Phân vùng sử dụng hỗn hợp cho phép các cơ sở bán lẻ thực phẩm nằm xen kẽ với các khu dân cư cũng có thể ảnh hưởng đến mô hình mua sắm và ăn uống. Tương tự, hệ thống giao thông công cộng có thể điều chỉnh cách thức và tốc độ người dân tiếp cận thị trường thực phẩm, thời gian người dân dành cho ăn uống, bản chất và quy mô của các nhà bán lẻ thực phẩm. Một số thành phố đã cố tình đảm bảo để mọi người dân đều ở gần các chợ thực phẩm. Các thành phố ở châu Á có thể sử dụng quy tắc phân vùng và cấp phép để giúp đảm bảo luôn sẵn có thực phẩm lành mạnh và giúp người dân tránh xa thực phẩm không lành mạnh, mặc dù phạm vi sử dụng các công cụ này bị hạn chế bởi tình trạng không chính thức dai dẳng của ngành thực phẩm đô thị trong khu vực. Quy tắc phân vùng là một đòn bẩy mà các thành phố có thể sử dụng để hạn chế hoạt động thương mại của một số loại hình kinh doanh, bao gồm cả những loại hình kinh doanh được xem như phương tiện khuyến khích thức ăn nhanh hoặc chế biến quá mức đến mức không lành mạnh. Các thành phố cũng có thể sử dụng giấy phép để khuyến khích doanh nghiệp thực phẩm định hình hoạt động chính thức của các cơ sở bán lẻ thực phẩm và hướng dẫn các cơ sở này cung cấp và quảng cáo thực phẩm lành mạnh. Ví dụ, giấy phép có thể yêu cầu các cửa hàng thực phẩm cung cấp và định vị rõ ràng những loại thực phẩm có nguồn gốc thực vật được chế biến tối thiểu và đáp ứng yêu cầu cơ bản về an toàn thực phẩm, để được mở cửa hoặc tiếp tục hoạt động. Tuy nhiên, trong can thiệp này và những can thiệp khác, các thành phố châu Á phải đối mặt với thực tế là phần lớn ngành thực phẩm TÓM TẮT TỔNG QUAN xxv nằm ngoài nền kinh tế chính thức. Trên thực tế, cần thận trọng để tránh vô tình làm nản lòng hoặc không khuyến khích doanh nghiệp thực phẩm hoạt động chính thức. Các thành phố châu Á cần phát triển các mô hình hậu cần và bán buôn thực phẩm để có thể đáp ứng nhu cầu khác nhau của các nhà bán lẻ thực phẩm đa dạng. Một quỹ đạo chung cho các thành phố ở các quốc gia có thu nhập cao, khi các thành phố tăng trưởng và hoàn thiện, là dịch chuyển chợ thực phẩm đầu mối từ các khu vực đông dân cư của thành phố, nơi chợ gây tắc nghẽn ngày càng tăng và các vấn đề khác, tới khu vực ngoại vi thành phố. Tuy nhiên, việc di dời chợ đầu mối từ các khu vực đông đúc tới nơi dân cư thưa hơn là thành công với giả định rằng có đủ lượng người kinh doanh trong chợ có khả năng chuyển hoạt động kinh doanh đến bất cứ nơi nào chợ đầu mối được chuyển tới. Rõ ràng không phải mọi người kinh doanh đều có thể chuyển dịch và việc di dời chợ đầu mối có thể gây thay đổi trong nguồn cung thực phẩm của thành phố, tạo đặc quyền cho những thành viên tham gia lớn và có tổ chức tốt hơn những người buôn bán nhỏ có năng lực và phương tiện hạn chế hơn. Kinh nghiệm với những chuyển đổi như vậy cho thấy thường có người hưởng lợi và người chịu thiệt hại nhưng thị trường sẽ điều chỉnh. Tuy nhiên, kinh nghiệm về di dời như vậy chủ yếu đến từ các thành phố có tỷ lệ thâm nhập siêu thị và mức độ chính thức cao. Đa số những người bán hàng nhỏ hoạt động không chính thức ở các thành phố Châu Á sẽ thiếu cơ hội tiếp cận phương tiện chuyên dụng và đội ngũ nhân viên được đào tạo cần thiết để vận chuyển hàng hóa giữa nhà cung cấp và khách hàng trong trường hợp di dời chợ đầu mối. Và nếu không thiếu những yếu tố này, việc đi lại của người bán cũng sẽ gây thêm vấn đề tắc nghẽn ở các thành phố vốn đã quá tải bởi giao thông và ùn tắc. Việc không lường trước được và lập kế hoạch trước cho những thách thức này có thể góp phần làm suy yếu hoạt động thực phẩm phi chính thức và khiến một lượng lớn người tiêu dùng ở các thành phố châu Á không tiếp cận được thực phẩm lành mạnh với giá cả hợp lý. Các thành phố châu Á nói chung có mức độ phụ thuộc cao vào khu vực thực phẩm phi chính thức, và những nỗ lực hướng đến việc giải tán hoạt động và thị trường thực phẩm phi chính thức có rủi ro phản tác dụng hoặc gây hại nhiều hơn lợi. Những thách thức liên quan đến tính phi chính thức bao gồm trốn thuế, tắc nghẽn, thị trường lộn xộn và các vấn đề về hình ảnh, thực phẩm không an toàn, và đồ ăn vặt không lành mạnh. Tuy nhiên, rủi ro khi giải tán hoạt động phi chính thức bao gồm gián đoạn đối với sinh kế và mạng lưới an toàn của ngành thực phẩm, mất đi thị trường thực phẩm tươi sống và chế biến sẵn với mức giá hợp lý (và thay thế bằng cửa hàng tiện lợi và chuỗi thức ăn nhanh là nơi truyền dẫn thực phẩm chế biến quá mức và thói quen ăn uống không lành mạnh), và làm xói mòn văn hóa ẩm thực địa phương. Nhiều người bán hàng rong không chính thức ở các thành phố đến từ các khu dân cư có thu nhập thấp, sống theo các nhóm dân tộc hoặc văn hóa tương quan với mô hình di cư đến thành phố. Với thực tế này, hầu hết các thành phố châu Á sẽ được hưởng lợi về xã hội và kinh tế khi tìm được cách thức để tương tác có tính xây dựng với khu vực chợ thực phẩm phí chính thức. Có thể có cải tiến dần dần thông qua kết hợp các giải pháp về quản lý, đào tạo và giải pháp khác, trong khi các giải pháp dài hạn hơn có thể dẫn đến việc chính thức hóa cả những đơn vị kinh doanh thực phẩm rất nhỏ. Về khía cạnh này, kinh nghiệm lịch sử của Singapore khá phù hợp, khi đã nâng cấp dần một cách có trật tự và chính thức hóa hoạt động bán hàng trên phố với kết quả là các cộng đồng và khu ẩm thực thương mại ngày nay. Đầu tư nâng cấp chợ thực phẩm tươi sống có thể là một cách để duy trì sự phù hợp của các địa điểm bán lẻ thực phẩm quan trọng này, nâng cao tiện ích trong khi giải quyết nhược điểm của các khu chợ. Nhược điểm bao gồm xử lý thực phẩm không an toàn, trốn thuế, và sử dụng không gian thiếu hiệu quả hoặc ồn ào, do đó có thể làm giảm hình ảnh thành phố và giảm đầu tư. Các khoản đầu tư của thành phố có thể giải quyết nhu cầu của các khu chợ về nước sạch, quản lý chất thải, giao thông và đường vào chợ, năng lượng và kho lạnh, và các nhu cầu “mềm hơn”, ví dụ như tiêu chuẩn và đo lường, giải quyết tranh chấp, thông tin thị trường, thậm chí đào tạo chuyên môn và cấp phép. Hỗ trợ đối với hành động tập thể của các cơ sở bán lẻ thực phẩm nhỏ hoạt động không chính thức – dù độc lập hay trong các chợ thực phẩm tươi sống lớn – có thể mở ra khả năng tích hợp những nhà bán lẻ này, và chức năng quan trọng của họ, trong hiện đại hóa hệ thống chợ đầu mối. Kinh nghiệm của Ahmedabad, Ấn Độ cũng chỉ ra lợi ích của việc hợp tác với các hiệp hội bán hàng rong để thiết kế và thực hiện các giải pháp bền vững. Ở cấp quốc gia, Ấn Độ đã chủ động hơn nhiều quốc gia trong nỗ lực đưa người bán hàng rong vào quá trình hoạch định chính sách. Ở hầu hết các quốc gia châu Á, chính quyền thành phố có vai trò quan trọng nhưng thường chưa được công nhận trong việc giải quyết các rủi ro mới về an toàn thực phẩm. Thông thường, các ban ngành của thành phố xxvi THỰC PHẨM TỐT, THÀNH PHỐ AN TOÀN chịu trách nhiệm kiểm tra và giám sát các chợ bán buôn và bán lẻ, cơ sở kinh doanh và cung cấp thực phẩm, đồng thời báo cáo về dịch bệnh do thực phẩm gây ra cho người dân thành thị. Tuy nhiên, những chức năng này thường ít được cung cấp nguồn lực. Các cơ quan về an toàn thực phẩm thành phố thường tập trung nỗ lực hàng ngày vào kiểm soát một nhóm hạn chế các doanh nghiệp thực phẩm lớn thuộc khu vực chính thức, nếu không thì cũng “phản ứng thụ động” với các đợt bùng phát an toàn thực phẩm và các sự kiện tiêu cực khác. Do nhận thức ngày càng rõ về chi phí đối với sức khỏe cộng đồng và chi phí thương mại do thực phẩm đô thị không an toàn gây ra, các thành phố hiện cần đầu tư ngày càng thông minh hơn cho năng lực an toàn thực phẩm, tập trung nhiều hơn vào các biện pháp phòng ngừa hơn là các biện pháp phản ứng thụ động, và nỗ lực nhiều hơn để tạo điều kiện thuận lợi cho phép người bán và nhà cung cấp thực phẩm cải thiện hành vi, như việc xử lý các trường hợp vi phạm quy định. Can thiệp liên quan đến nông nghiệp đô thị và ven đô Những lý do tiềm tàng để triển khai nông nghiệp đô thị và ven đô: ŠŠ Bảo vệ sức khỏe dựa trên chế độ ăn bằng cách bảo vệ nguồn cung các loại trái cây và rau quả tươi quan trọng về dinh dưỡng và thực phẩm chế biến tối thiểu cho người dân (thông qua việc bảo vệ đất trồng). ŠŠ Quản lý sự gián đoạn đối với sinh kế và nguồn cung thực phẩm của những người phụ thuộc vào nguồn cung này (thông qua phát triển mạng lưới an toàn đầy đủ). ŠŠ Quản lý và có thể hỗ trợ hiệu quả, về môi trường hoặc khía cạnh khác, của hoạt động canh tác đô thị trên thực tế (thông qua khuyến nông đô thị và hoạt động tương tự). ŠŠ Tận dụng canh tác như cách thức không tốn kém để duy trì không gian thông thoáng, tốt cho quản lý nước mưa, tích tụ chất thải, và (rõ ràng) duy trì các công viên. ŠŠ Bảo tồn các trang trại cho mục đích giáo dục – giải trí (yêu cầu quy mô nhỏ hơn nhiều). Tính chất gần như không thể đảo ngược của việc chuyển đổi đất canh tác ở đô thị và ven đô cho thấy nhu cầu phải phân tích thận trọng – ở cấp thành phố trở lên – về các tác động và thỏa hiệp khác nhau của việc chuyển đổi. Ví dụ, phân tích ở cấp quốc gia hoặc cấp cao hơn là cần thiết để hiểu rõ về đóng góp của đất canh tác ở đô thị và ven đô đối với an ninh lương thực của quốc gia và của riêng thành phố, có tính đến khác biệt địa lý về chất lượng và tiềm năng đất canh tác, quan hệ giữa địa lý sản xuất và tiếp cận và định giá thực phẩm, ngoại ứng môi trường của canh tác và thay đổi mục đích sử dụng đất, và các luồng thương mại thực phẩm. Bằng cách xem xét các chức năng ngắn và dài hạn hoặc nông nghiệp đô thị và ven đô, các thành phố có thể xác định chính xác hơn về việc cần có bao nhiêu không gian và hỗ trợ. Mặc dù việc bảo vệ đất canh tác ở vùng ven đô không phải là trách nhiệm duy nhất của các thành phố – và các thành phố hiếm khi có kiểm soát toàn bộ hoặc trực tiếp đối với việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất ở vùng ven đô (đặc biệt là các đại đô thị) – thành công của việc bảo vệ đất thường yêu cầu sự sẵn sàng và tham gia chủ động của các thành phố. Kinh nghiệm của nhiều thập kỷ về chính sách bảo vệ đất đai cho thấy ý chí chính trị và cam kết hành động là yếu tố thành công mạnh mẽ hơn mọi tập hợp công cụ. Kinh nghiệm cũng cho thấy việc bảo vệ đất canh tác hiệu quả phụ thuộc vào việc sử dụng kết hợp nhiều loại công cụ, bao gồm cả các giải pháp trực tiếp và gián tiếp cũng như củ cà rốt và cây gậy. Việc lồng ghép cân nhắc về nông nghiệp trong quy hoạch không gian có lẽ cần thiết, mặc dù chưa đủ, để đảm bảo đất canh tác chiến lược được xác định và không bị xóa bỏ khả năng sinh tồn kinh tế. Điều này có thể xảy ra khi đất canh tác bị chia nhỏ hoặc phân nhỏ bởi huyết mạch giao thông, hạ tầng, và hoạt động phát triển khác. Việc tích hợp khía cạnh nông nghiệp trong quy hoạch có thể giúp các thành phố xác định và giải quyết các chính sách và hoạt động phát triển đô thị chung có thể vô tình làm tăng áp lực lên đất nông nghiệp. Trên thực tế, việc bảo vệ đất canh tác cũng có thể được thực hiện thông qua việc hủy bỏ chính sách cũng như việc áp dụng chính sách mới. Ví dụ, một số chính sách hoặc thông lệ của thành phố, bao gồm cả những chính sách có mục đích tốt thúc đẩy phát triển gọn nhẹ hơn, có thể lại đẩy nhanh việc chuyển đổi đất nông nghiệp do tăng giá đất và nhà ở đô thị và thúc đẩy phát triển đô thị. Hỗ trợ từ các cấp chính quyền cao hơn có thể hữu ích hoặc thậm chí cần thiết để bảo vệ đất canh tác như trường hợp Trung Quốc và Nhật Bản. Một hướng hành động cho các chính phủ quốc gia là thiết lập các chính sách ưu đãi để các nhà lãnh đạo thành phố ưu tiên cao hơn cho việc bảo vệ đất canh tác. TÓM TẮT TỔNG QUAN xxvii Đối với hầu hết các thành phố châu Á, áp lực thị trường chắc chắn sẽ dẫn đến việc chuyển đổi hoặc từ bỏ đất canh tác ở vùng ven đô trên diện rộng. Để chống lại điều này, cần có chính sách bảo vệ đất canh tác trực tiếp hơn và những chính sách này có thể dựa trên một bộ công cụ đã được xây dựng hoàn chỉnh. Nhiều công cụ liên quan đến hoặc xuất phát từ các quy tắc phân vùng, và các quy tắc chuyển nhượng và phát triển đất tổng thể hơn. Nhìn chung, các công cụ này hoạt động bằng cách xác định các khu vực, bao gồm cả khu vực nông nghiệp, tại đó sẽ áp dụng các quy tắc phát triển đất đai, thị trường đất đai, tài chính, và các quy tắc khác. Nói cách khác, đất nông nghiệp được đưa vào diện đối xử đặc biệt. Ví dụ bao gồm luật về quyền làm nông nghiệp, thỏa thuận bảo tồn nông nghiệp, hạn chế tách thửa, chương trình chuyển nhượng quyền phát triển, quyền ưu tiên khi bán đất nông nghiệp, và các cơ chế đối xử thuế đặc biệt, v.v… Nhiều công cụ quy hoạch đô thị cũng có thể được sử dụng để tạo không gian và hỗ trợ tích cực cho hoạt động nông nghiệp đô thị. Quy hoạch đô thị có thể chủ động tích hợp sản xuất lương thực trong không gian đô thị, đặc biệt bằng cách đảm bảo để không gian đó có thể tiếp cận hiệu quả đầu vào nông nghiệp (bao gồm nước thải sinh hoạt, chất dinh dưỡng và năng lượng dựa trên chất thải) cũng như thị trường. Các khoản đầu tư thực tế vào hạ tầng hỗ trợ nông nghiệp đô thị, như hạ tầng thủy lợi, có thể dưới hình thức trợ cấp để tăng giá trị của những hoạt động này hoặc giảm thiểu tác động ngoại ứng. Các ví dụ khác bao gồm dịch vụ khuyến nông đô thị, yêu cầu thu mua lương thực địa phương đối với các tổ chức trong thành phố (cung cấp thị trường cho nông dân đô thị), đầu tư hoặc hỗ trợ thị trường và dịch vụ tiếp thị cho nông dân địa phương, và dành đất thuộc sở hữu nhà nước cho nông nghiệp. Trong trường hợp này, đôi khi cần hủy bỏ một số chính sách để sản xuất lương thực đô thị tăng trưởng hoặc phát triển. Ví dụ, hoạt động canh tác trong nhà và trên mái nhà thường bị hạn chế bởi các quy định của cơ quan quản lý đối với các hoạt động canh tác ở một số khu vực của thành phố không quy hoạch cho nông nghiệp hoặc trong các công trình phi nông nghiệp – và cho phép miễn trừ không áp dụng quy định hoặc hủy bỏ quy định.. LỘ TRÌNH TƯƠNG LAI: XÂY DỰNG CÁC THÀNH PHỐ MẠNH MẼ VỚI HỆ THỐNG THỰC PHẨM ĐÁNG TIN CẬY, HÒA NHẬP, CẠNH TRANH VÀ LÀNH MẠNH (“RICH”)1 Những diễn biến gần đây bao gồm tổn thất đáng kể về đất nông nghiệp ven đô, gia tăng tỷ lệ mắc các bệnh liên quan đến thực phẩm và chế độ ăn, gia tăng các nền tảng và doanh số bán hàng thương mại điện tử liên quan đến thực phẩm và gián đoạn thị trường thực phẩm trên diện rộng liên quan đến đại dịch COVID–19, đã nâng cao nhận thức của các bên liên quan về những thách thức và cơ hội ngày càng tăng liên quan đến hệ thống thực phẩm đô thị ở châu Á mới nổi. Đại dịch làm nổi bật tính chất dễ đổ vỡ tiềm ẩn của hệ thống thực phẩm và hậu quả của khả năng chẩn đoán và quản lý thực phẩm còn hạn chế ở nhiều thành phố châu Á. Những cách thức tổ chức vốn căng thẳng về dịch vụ hậu cần thực phẩm, giám sát an toàn thực phẩm, an ninh lương thực của các nhóm dân cư dễ bị tổn thương, và quản lý chất thải thực phẩm đôi khi gây ra nút thắt dưới sức nặng của nguồn cung và gián đoạn sinh kế, hạn chế về vận chuyển, và đóng cửa thị trường liên quan đến đại dịch và biện pháp ứng phó với đại dịch. Khi các quốc gia ở châu Á mới nổi kiểm soát được đại dịch và chuyển sang giai đoạn phục hồi sau đại dịch, các thành phố trong khu vực sẽ phải đối mặt với nghị trình về lương thực – thực phẩm thậm chí còn phức tạp hơn trước, bao gồm quan tâm ngày càng nhiều hơn đến mất an ninh lương thực và sức khỏe cộng đồng. Đối với nhiều thành phố thuộc nhiều quy mô khác nhau, các vấn đề liên quan đến thực phẩm sẽ đại diện cho một số rủi ro nổi bật nhất cũng như cơ hội kinh tế trong thập kỷ tới. Đối với nhiều thành phố đã và đang tiếp cận các vấn đề về hệ thống thực phẩm theo phương thức thụ động, chữa cháy, bản thân cách tiếp cận theo kịch bản như bình thường là chiến lược mạo hiểm. Trường hợp không có chính sách và quản trị nông nghiệp hiệu quả hơn, các thành phố có thể bị choáng ngợp bởi một loạt các xung đột đất đai, mất an ninh dinh dưỡng, ô nhiễm thực phẩm, và các vấn đề suy thoái môi trường. Đối với nhiều thành phố khác vẫn đang trong giai đoạn đầu xây dựng và thực hiện chính sách thực phẩm toàn diện và bao trùm, các thành phố cần có nỗ lực sâu hơn và nhanh hơn để có được tác động nhiều nhất. 1 RICH là từ viết tắt trong tiếng Anh của Reliable, Inclusive, Competitive và Healthy xxviii THỰC PHẨM TỐT, THÀNH PHỐ AN TOÀN Nâng cao khát vọng về hệ thống thực phẩm đô thị Khát vọng về hệ thống lương thực – thực phẩm đô thị cần phù hợp hơn và tương xứng hơn với mục tiêu phát triển kinh tế và xã hội rộng hơn của các thành phố đang phát triển nhanh ở châu Á mới nổi. Phần lớn các thành phố châu Á thiếu mục tiêu chính sách rõ ràng liên quan đến hệ thống lương thực – thực phẩm. Còn nếu có, những mục tiêu đó thường rập khuôn mục tiêu của quốc gia (mục tiêu liên quan đến an ninh lương thực) chứ không liên quan đến hoàn cảnh cụ thể của từng thành phố. Mặt khác, những mục tiêu đề cập có xu hướng chỉ tập trung vào tránh hoặc giảm tác động của các cú sốc gián đoạn liên quan đến thời tiết, giá thực phẩm, bùng phát an toàn thực phẩm, v.v... Những mục tiêu như vậy có thể hữu ích cho mục đích giảm thiểu rủi ro nhưng không đề cập gì đến cơ hội của các thành phố thông qua việc thay đổi tiến bộ của hệ thống thực phẩm và chế độ ăn. Mặc dù có ví dụ về ngoại lệ tích cực, các thành phố châu Á hiếm khi thể hiện rõ khát vọng mạnh mẽ đối với hệ thống lương thực – thực phẩm. Các mục tiêu liên quan đến lương thực – thực phẩm lại càng ít khi tương xứng với mục tiêu to lớn thường thấy của các thành phố về sức mạnh tài khóa và kinh tế, đổi mới và tăng trưởng việc làm, bền vững, xanh, an toàn và đáng sống. Về lâu dài, các thành phố mạnh mẽ ở châu Á sẽ là những thành phố có hệ thống lương thực – thực phẩm “RICH”, hay hệ thống lương thực – thực phẩm: ƒƒ Đáng tin cậy (Reliable–R) – đảm bảo an ninh lương thực cơ bản, cung cấp nguồn cung cấp thực phẩm ổn định và đầy đủ, có khả năng chống chịu với các cú sốc. Đặc điểm này liên quan đến các mục tiêu rộng lớn hơn của thành phố về ổn định xã hội, bền vững, và khả năng ứng phó với thiên tai. ƒƒ Bao trùm (Inclusive–I) – phục vụ những cư dân ít có điều kiện nhất của thành phố, cho họ cơ hội tiếp cận thực phẩm và giải phóng sự bất bình đẳng về sức khỏe dinh dưỡng, đóng góp tích cực cho nền kinh tế địa phương năng động và công bằng. Đặc điểm này liên quan đến các mục tiêu rộng lớn hơn của thành phố về ổn định xã hội, giảm nghèo, và công bằng xã hội. ƒƒ Cạnh tranh (Competitive–C) – đóng góp cho đổi mới, năng động kinh tế, và sự đa dạng của nền kinh tế, đồng thời thu hút doanh nghiệp và nhà đầu tư với nhiều quy mô và nguồn gốc khác nhau. Đặc điểm này liên quan đến các mục tiêu rộng lớn hơn của thành phố về năng động và phục hồi kinh tế, tạo việc làm, và sức khỏe tài khóa. ƒƒ Lành mạnh (Healthy–H) – thực hiện một chế độ ăn an toàn và lành mạnh về dinh dưỡng đồng thời không gây hại cho môi trường và có đóng góp ròng cho sức khỏe của nền kinh tế địa phương. Đặc điểm này liên quan đến các mục tiêu rộng lớn hơn của thành phố về xanh, sức khỏe, đáng sống, và sức khỏe tài chính. Tăng cường phân tích và chia sẻ kiến thức về thực phẩm đô thị Các chỉ số phù hợp và có thể đo lường được cho mỗi trong số những khía cạnh này về hoạt động của hệ thống lương thực – thực phẩm đô thị có thể được xây dựng riêng ở cấp thành phố, nhưng theo định hướng của các mạng lưới quốc gia, khu vực, hoặc mạng lưới các thành phố có định hướng tương tự. Theo thời gian, những chỉ số này có thể được sử dụng để đánh giá ảnh hưởng và hiệu quả của những can thiệp chính của thành phố đối với hệ thống lương thực – thực phẩm và tương ứng với người tiêu dùng của thành phố. Chương 5 đề xuất hàng chục chỉ số cho mỗi nhóm hiệu quả “RICH”. Một số chỉ số có thể tận dụng dữ liệu hiện có hoặc điều tra được thực hiện định kỳ. Những chỉ số khác sẽ yêu cầu khảo sát mới hoặc có cách thức khác để thu thập thông tin cần thiết một cách thường xuyên kịp thời. Sẽ không thực tế nếu mong đợi từng thành phố riêng, đặc biệt các thành phố nhỏ hơn và ít nguồn lực hơn, đầu tư nhiều cho thu thập và phân tích dữ liệu thực phẩm đô thị. Phần lớn nỗ lực cần được thực hiện ở cấp quốc gia hoặc theo đuổi thông qua một chương trình phối hợp theo khu vực. Trên thực tế, việc cải thiện giám sát hiệu quả hệ thống lương thực – thực phẩm phải thuộc khuôn khổ một chương trình phân tích thực phẩm đô thị mở rộng trong nhiều năm ở châu Á mới nổi. Nghiên cứu này cho thấy các nhà quy hoạch đô thị và nhà hoạch định chính sách trong khu vực phải đối mặt với thiếu hụt thông tin đáng kể về cấu trúc và hiệu quả của hệ thống lương thực – thực phẩm đô thị. Trong nhiều nội dung của TÓM TẮT TỔNG QUAN xxix hệ thống lương thực, không có sẵn dữ liệu đại diện và cập nhật hoặc dữ liệu không được phân tách đầy đủ theo khu vực nông thôn và thành thị. Ngay cả khi có dữ liệu đô thị tổng hợp, dữ liệu này thường không thể sử dụng để phân biệt mô hình hoặc xu hướng giữa các thành phố nhỏ và thành phố lớn. Dữ liệu chính xác liên quan đến (thường rất nhiều) cấu phần không chính thức của hệ thống lương thực – thực phẩm đô thị, là khu vực hầu như không có dữ liệu. Cần thực hiện công tác khảo sát nhanh có hệ thống để giải quyết thiếu hụt kiến thức này và những thiếu hụt kiến thức khác trong bối cảnh phát triển nhanh chóng. Cũng có thể sử dụng phân tích dữ liệu lớn, thu thập thông tin qua đám đông, và những kỹ thuật mới khác. Cộng đồng các nhóm nghiên cứu cũng đang ở giai đoạn đầu thu thập và phân tích dữ liệu liên quan đến những sắp xếp thể chế điều chỉnh công tác quản trị hệ thống lương thực – thực phẩm đô thị ở châu Á và các danh mục chính sách và chương trình đang được các thành phố triển khai. Khảo sát hạn chế được thực hiện cho nghiên cứu này, theo hiểu biết tốt nhất của chúng tôi, là nỗ lực đầu tiên để có được bức tranh tổng thể về thực trạng của chính sách lương thực đô thị trong khu vực Châu Á. Hầu hết công việc trước đây bao gồm các nghiên cứu tình huống riêng lẻ ghi nhận kinh nghiệm tích cực và các thực hành tốt nhất. Có thể thực hiện phân tích chi tiết hơn về kết quả khảo sát của chúng tôi, nhưng chúng tôi không có ý định thu thập dữ liệu có hệ thống về kết quả liên quan đến thực phẩm ở các thành phố tham gia khảo sát. Do đó, quan hệ giữa hành động (hoặc không hành động) và kết quả chưa được phân tích tại thời điểm này. Ở cấp độ khu vực và đối với các thành phố có quy mô và đặc điểm khác nhau, chưa thể rút ra kết luận chính xác về hành động nào hiệu quả và hành động nào không. Kết luận như vậy yêu cầu thực hiện một chương trình nghiên cứu ứng dụng và tăng cường quản lý tri thức, đặc biệt cần tìm hiểu thêm từ kinh nghiệm và thực tế của các thành phố vừa và nhỏ. Lồng ghép lương thực – thực phẩm trong hoạch định chính sách đô thị và hành động trong lĩnh vực ưu tiên Mặc dù các thành phố châu Á có thể dựa trên nhiều kinh nghiệm quốc tế trong giải quyết các vấn đề về hệ thống thực phẩm thông qua chính sách đô thị, các thành phố vẫn cần xây dựng “công thức” riêng. Như đã lưu ý, quy mô, tốc độ nhanh chóng, và bản chất của những thay đổi đang định hình lại đô thị châu Á – và tất nhiên sự đa dạng của khu vực – đồng nghĩa với việc các thành phố châu Á phải đối mặt với một tập hợp các hoàn cảnh cụ thể. Trên thực tế, điểm đặc biệt này, kết hợp với bằng chứng hạn chế về những giải pháp có hiệu quả và lý do, khiến các nhà lãnh đạo đô thị đứng trước một tình thế lưỡng nan. Các nhà lãnh đạo đô thị nên ưu tiên đến mức độ nào những phương thức đã được thử nghiệm nhiều và được cho là hoặc được chứng tỏ là có hiệu quả mặc dù áp dụng còn hạn chế, hay tập trung vào những phương thức tiên phong mới hơn, ít được nghiên cứu nhưng có tiềm năng có thể thay đổi cả hệ thống? Trong tương lai, từng thành phố, quốc gia và các nhóm thành phố, quốc gia sẽ phải quyết định lộ trình phù hợp nhất với hoàn cảnh của mình. Phân tích trong nghiên cứu này, đặc biệt là ở Chương 4, chỉ ra rằng danh mục những công cụ chính sách tiềm năng cho hệ thống thực phẩm đô thị ở châu Á mới nổi rất dài. Đối với nhiều thành phố, có nhiều việc có thể làm để tác động đến quỹ đạo và kết quả gắn với lựa chọn và hành vi của người tiêu dùng, tiếp thị thực phẩm và hậu cần, cũng như sản xuất nông nghiệp cơ bản. Và như đã thảo luận trong nghiên cứu, việc hành động nhiều hơn có thể theo nhiều hình thức, bao gồm các chiến dịch vận động chính sách, quy định, đầu tư, hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư và dịch vụ do khu vực tư nhân, Tổ chức Phi Chính phủ (NGO), hoặc các tổ chức khác cung cấp. Sự phù hợp của các hình thức hành động khác nhau phụ thuộc vào hoàn cảnh địa phương, bao gồm cấu trúc và mức độ phức tạp của thị trường thực phẩm địa phương, nhân khẩu học của thành phố, và sự sẵn có về nguồn lực con người, tài chính, và thể chế. Một số nỗ lực có thể hướng đến các nhóm dân cư hoặc khu vực địa lý cụ thể trong khi những nỗ lực khác có thể tìm cách tác động đến đầu tư, hành vi, và kết quả trên toàn thành phố. Mỗi thành phố hoặc cụm thành phố cần xây dựng chiến lược và kế hoạch hành động riêng, lý tưởng là sử dụng tham vấn các bên liên quan mở rộng. Bảng 0.1 Danh sách trên mười lĩnh vực hành động để các thành phố Châu Á tăng cường theo đuổi hệ thống lương thực – thực phẩm RICH. Bảng này nhằm mục đích minh họa chứ không phải là danh sách toàn diện và hầu hết các can thiệp này đều phục vụ nhiều mục đích, góp phần đạt được hơn một khát vọng của hệ thống lương thực – thực phẩm cấp cao hơn. xxx THỰC PHẨM TỐT, THÀNH PHỐ AN TOÀN Bảng 0.1: Lĩnh vực hành động tiềm tàng về thực phẩm RICH cho các thành phố ở Châu Á mới nổi Tin Bao Cạnh Lành cậy trùm tranh mạnh Bảo vệ đất canh tác tốt ở đô thị và ven đô, có thể thông qua các biện pháp quy hoạch *** * * ** và phân vùng, quy định và hạn chế sử dụng đất, giải pháp thị trường đất đai, các chương trình nhằm cải thiện giá trị đất nông nghiệp của người dân địa phương, hoặc các giải pháp khác. * * * * Tạo không gian cho nông nghiệp đô thị theo nhiều hình thức. Có thể trên đất công, mái nhà, gần các cơ quan nhà nước, và ở không gian công cộng ít được sử dụng. *** * ** ** Cung cấp hạ tầng và dịch vụ để hỗ trợ hoạt động nông nghiệp bền vững. Dự báo rủi ro môi trường và tạo điều kiện tiếp cận dịch vụ kỹ thuật và tài chính. * * ** ** Đầu tư và hợp tác trong các công nghệ cây trồng hiện đại để hỗ trợ người dân tiếp cận sản phẩm tươi sống, tạo việc làm, và quản lý các dòng thải đô thị. Đầu tư và hợp tác trong các chương trình đào tạo và vườn ươm về thực phẩm nông nghiệp để hỗ trợ đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp bền vững, phát triển kinh doanh thực phẩm bổ dưỡng , và tinh thần kinh doanh của thanh niên. * ** ** Đầu tư vào quy hoạch chiến lược hệ thống thị trường và hợp tác với khu vực tư nhân trong định vị và phát triển chợ đầu mối (cửa ngõ) hiện đại với nhiều dịch vụ như kho lạnh, hậu cần , và thông tin thị trường. ** * *** * Nâng cấp và phát triển hạ tầng và quản lý chợ cộng đồng cung cấp thực phẩm tươi sống để đảm bảo khả năng tiếp cận rộng rãi thực phẩm lành mạnh và giải quyết các rủi ro về môi trường và an toàn thực phẩm. * *** *** Tận dụng hoạt động mua sắm thực phẩm công cho các tổ chức nhà nước hoặc thuộc nhà nước quản lý, như các cơ quan chính phủ, bệnh viện, trường học, trại cải tạo để hỗ trợ cung cấp và tiêu thụ thực phẩm lành mạnh và bền vững (nghĩa là, các loại thực * * * ** phẩm trong chuỗi thực phẩm đa dạng, chế biến tối thiểu, và chủ yếu có nguồn gốc từ thực vật, hoặc phía dưới chuỗi thực phẩm). Tạo điều kiện thuận lợi cho các chương trình và can thiệp gồm nhiều bên liên quan nhằm cải thiện dinh dưỡng và sự đa dạng trong chế độ ăn, đặc biệt là cho phụ nữ, trẻ *** *** sơ sinh, và trẻ em trong các hộ gia đình nghèo và ở các khu định cư phi chính thức. Nâng cao nhận thức về sức khỏe dinh dưỡng của người dân cũng như các chuyên gia về hệ thống lương thực – thực phẩm và y tế công cộng thông qua giáo dục cộng *** đồng, cấp phép chuyên môn, và các chiến dịch tuyên truyền. Phát triển các chương trình thúc đẩy nâng cấp hoạt động canh tác, xử lý thực phẩm, chuẩn bị thực phẩm để giảm thiểu rủi ro an toàn thực phẩm và các rủi ro an toàn sinh học khác từ trang trại đến bàn ăn. Thực hiện những can thiệp như tăng cường giám ** * *** *** sát rủi ro an toàn thực phẩm và kiểm tra cơ sở thực phẩm bằng cách sử dụng phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro. Tạo điều kiện thuận lợi cho các sáng kiến và quan hệ đối tác về thất thoát và lãng phí thực phẩm ở quy mô cộng đồng hoặc trên toàn thành phố, bao gồm các sáng * * * ** kiến hỗ trợ ngăn ngừa chất thải, sử dụng thực phẩm thứ cấp, làm phân xanh, và kinh tế sinh học. Lưu ý: Đóng góp cho các mục tiêu RICH: Đáng kể (***), Trung bình (**), và Tối thiểu (*) TÓM TẮT TỔNG QUAN xxxi KÊU GỌI CÁC BÊN LIÊN QUAN KHÁC NHAU HÀNH ĐỘNG Các thành phố châu Á còn không gian đáng kể để tác động đến lộ trình của hệ thống lương thực nhưng điều này không đồng nghĩa với việc các thành phố có thể hoặc nên thực hiện nỗ lực này một cách độc lập. Trong một số lĩnh vực, các thành phố cần được các tổ chức cấp quốc gia và tiểu bang hướng dẫn chi tiết hơn hoặc trao quyền để hành động về vấn đề thực phẩm. Để thiết kế và thực hiện các kế hoạch và chương trình thành công, một số thành phố châu Á có thể cần tới hỗ trợ kỹ thuật và tài chính, và hầu hết sẽ được hưởng lợi từ việc chia sẻ kinh nghiệm của các thành phố tương đương. Trên thực tế, nhiều bên liên quan trong và ngoài các thành phố Châu Á có thể có vai trò và trách nhiệm quan trọng trong thúc đẩy chương trình nghị sự về thực phẩm đô thị ở Châu Á mới nổi. Các cơ quan chính phủ có vai trò quan trọng trong hỗ trợ các can thiệp chủ động và được thiết kế tốt ở cấp thành phố đối với hệ thống lương thực – thực phẩm. Nhiều hành động ở cấp thành phố trong lĩnh vực thực phẩm cần được cho phép và hướng dẫn theo luật pháp, quy định, tiêu chuẩn, và kế hoạch quốc gia. Từng thành phố riêng có thể sáng tạo trong cách áp dụng các luật, quy định, tiêu chuẩn, và kế hoạch này phù hợp nhất với hoàn cảnh của địa phương, nhưng từng thành phố không phải lúc nào cũng có thể tự hành động vì hệ thống nông nghiệp và thực phẩm của thành phố vẫn là một phần trong tổng thể quốc gia. Các quy tắc, quy định, hoặc thủ tục hành chính của quốc gia, nếu lỗi thời hoặc thiếu rõ ràng, có thể cản trở hành động hiệu quả ở cấp thành phố trong một số trường hợp, như ảnh hưởng đến việc liệu có thể thúc đẩy nông nghiệp đô thị trong không gian thành phố hay không. Việc thu thập dữ liệu cấp quốc gia cũng có vai trò quan trọng để các thành phố ra các quyết định trên cơ sở có đầy đủ thông tin liên quan đến hệ thống lương thực – thực phẩm. Ví dụ, dữ liệu quốc gia về tình trạng mất đất canh tác ven đô và những đóng góp của loại đất này trong cung cấp thực phẩm và dinh dưỡng tốt sẽ giúp cả thành phố và chính quyền cấp cao hơn can thiệp phù hợp và chặt chẽ. Một số can thiệp ở cấp thành phố có thể không thực hiện được nếu không có hỗ trợ tài chính từ các cấp chính quyền cao hơn. Có thể cần nguồn tài chính từ các chương trình quốc gia hoặc được cung cấp trên cơ sở cạnh tranh để tăng cường hành động ở cấp thành phố. Các cơ quan chính phủ cũng có thể đóng vai trò quan trọng khi các sáng kiến mở rộng trên nhiều khu vực pháp lý, ví dụ, liên quan đến nhiều chính quyền thành phố và nông thôn ở nhiều tỉnh xung quanh hoặc các cụm nông nghiệp xung quanh một thành phố lớn. Mạng lưới đa đô thị hoặc “xuyên qua nhiều địa phương” có thể đóng vai trò quan trọng trong nâng cao tầm quan trọng của các vấn đề tồn tại và cơ hội về lương thực – thực phẩm đô thị bằng cách nâng cao nhận thức về những vấn đề và cơ hội này đối với các nhà lãnh đạo thành phố và cải thiện kinh nghiệm và chia sẻ nguồn lực. Mạng lưới đa đô thị bao gồm những mạng lưới đã thiết lập cho các vấn đề thực phẩm (như mạng lưới các thành phố thuộc Hiệp ước Chính sách Thực phẩm Đô thị Milan), những mạng lưới nhằm thúc đẩy áp dụng các nguyên tắc “thành phố thông minh” (như mạng lưới Thành phố Thông minh ASEAN), và những mạng lưới hỗ trợ chung cho phát triển đô thị bền vững (như mạng lưới Chính quyền Địa phương Hành động vì Mục tiêu Bền vững [ICLEI] và mạng lưới các Thành phố C40). Những mạng lưới này là mạng lưới quốc tế và khu vực, tuy nhiên cũng sẽ có lợi nếu sử dụng các mạng lưới thành phố hoặc lãnh đạo thành phố của quốc gia để tăng cường nhận thức và chia sẻ kinh nghiệm về các vấn đề, cơ hội, và can thiệp liên quan đến thực phẩm. Cần huy động rộng rãi nhiều bên tham gia để theo đuổi có ý nghĩa nghị trình thực phẩm RICH, và nhờ đó, ví dụ về những hành động mà các nhóm liên quan cụ thể có thể thực hiện để tham gia chủ động hơn trong các vấn đề liên quan đến thực phẩm đô thị đề cập dưới đây. Những kêu gọi hành động này được đưa ra cho các nhà lãnh đạo thành phố và nhà hoạch định chính sách, chuyên gia quy hoạch đô thị, các bộ ở cấp trung ương (như bộ nông nghiệp, y tế, thương mại, và môi trường), công ty thực phẩm lớn và hiệp hội công nghiệp thực phẩm, tổ chức xã hội dân sự, tổ chức học thuật (nghiên cứu và giáo dục), và đối tác phát triển quốc tế. xxxii THỰC PHẨM TỐT, THÀNH PHỐ AN TOÀN Chuyên gia quy hoạch đô thị ŠŠ Xây dựng tầm nhìn về cách thức văn hóa ẩm thực, sản xuất thực phẩm, và kinh doanh liên quan đến thực phẩm có thể góp phần tốt hơn cho các mục tiêu phát triển kinh tế và tăng năng lực cạnh tranh trong ngắn và dài hạn của thành phố, và cách thức thương mại và rủi ro hoặc chi phí liên quan đến thực phẩm sẽ tác động đến sức khỏe tài chính của thành phố, theo các kịch bản khác nhau. ŠŠ Tích hợp cân nhắc về sự sẵn có, khả năng chi trả, và chất lượng thực phẩm trong đánh giá về mở rộng đô thị theo chiều ngang và chiều dọc, đặc biệt chú ý đến nhu cầu và phạm vi bảo vệ đất nông nghiệp ven đô. Lượng hóa, ở cấp địa phương, cạnh tranh trong tương lai giữa các mục đích sử dụng đất, nước và tài nguyên cho nông nghiệp, nhà ở, công nghiệp và các mục đích khác, đồng thời xác định rõ các phương án và thỏa hiệp chính sách liên quan đối với các nhà hoạch định chính sách của thành phố và quốc gia. ŠŠ Xem xét các lựa chọn thay thế để tạo không gian cho nông nghiệp đô thị, có thể thông qua phân vùng đất công của thành phố, chỉ định đất cho các khu vườn cộng đồng, hoặc tận dụng mái nhà, và các công trình khác cho sản xuất nông nghiệp. Dự thảo các phương án chính sách và chương trình để hiện thực hóa tiềm năng này. ŠŠ Xây dựng kế hoạch chiến lược ngắn và dài hạn liên quan đến việc duy trì, nâng cấp, hoặc chuyển đổi chợ thực phẩm cộng đồng hoặc truyền thống, có tính đến yếu tố nhân khẩu học, xu hướng mua thực phẩm, yêu cầu vận chuyển hiện tại và tương lai, và các yếu tố khác. Định vị đánh giá này để có thể ra quyết định trên toàn thành phố thay vì cho lần lượt từng chợ truyền thống. ŠŠ Tích hợp các cân nhắc về rác thải thực phẩm, bao bì thực phẩm, nước thải và ô nhiễm liên quan đến thực phẩm trong các chiến lược của thành phố để giảm hoặc quản lý chất thải và quản lý môi trường. ŠŠ Lồng ghép các cân nhắc về sự sẵn có, khả năng chi trả, chất lượng, và văn hóa thực phẩm trong kế hoạch của thành phố–khu vực để thúc đẩy du lịch trong nước và quốc tế ở những nơi có tiềm năng du lịch. Lãnh đạo thành phố và các nhà hoạch định chính sách châu Á ŠŠ Xây dựng thông điệp rõ ràng và định kỳ truyền thông cho người dân về cách thức những vấn đề về thực phẩm, thương mại thực phẩm, và vấn đề chế độ ăn có liên quan đến các mục tiêu lớn hơn, các tồn tại, và cơ hội của thành phố (và vùng sâu vùng xa của thành phố) – với trọng tâm là các yếu tố có ảnh hưởng đến tính chống chịu, bao trùm, năng lực cạnh tranh, và sức khỏe (con người, môi trường và tài chính). ŠŠ Dẫn dắt hoặc trao quyền cho người khác dẫn dắt đối thoại giữa các nhóm bên liên quan chính nhằm xác định các lĩnh vực ưu tiên để đầu tư trong ngắn và trung hạn ở thành phố, tạo điều kiện thuận lợi, và vận động, để thúc đẩy hệ thống lương thực đô thị lành mạnh và bền vững hơn. ŠŠ Vận động các nhà lãnh đạo quốc gia và cơ quan chức năng thực hiện cải cách luật pháp và quy định của quốc gia và tăng cường hướng dẫn cụ thể ở cấp quốc gia để cho phép hoặc tạo điều kiện tốt hơn cho hành động ở cấp thành phố–khu vực. ŠŠ Xây dựng hoặc tăng cường các sắp xếp thể chế để cải thiện sự nhất quán của chính sách liên quan đến thực phẩm và cải thiện việc điều phối các sáng kiến liên quan đến thực phẩm trong thành phố–khu vực. Hoạt động này có thể bao gồm kết hợp giữa các ủy ban tạm thời và cơ cấu lâu dài hơn. ŠŠ Phân bổ đủ nguồn lực cho đầu tư công và chi phí vận hành thể chế để theo đuổi hiệu quả cơ hội của hệ thống thực phẩm và quản lý những rủi ro lớn nhất của hệ thống thực phẩm đối với thành phố–khu vực. Theo dõi hiệu quả (về chi phí) của các khoản chi tiêu này và điều chỉnh khi cần thiết. ŠŠ Sử dụng các chương trình và các khoản đầu tư công để thúc đẩy đầu tư tư nhân và khuyến khích các hoạt động khác nhằm tăng cường năng lực của hệ thống thực phẩm và cải thiện kết quả liên quan đến thực phẩm. ŠŠ Tham gia các mạng lưới đa đô thị toàn cầu, khu vực, và quốc gia, mang lại cơ hội học hỏi và chia sẻ kinh nghiệm liên quan đến chính sách và thông lệ tốt về lương thực – thực phẩm đô thị. TÓM TẮT TỔNG QUAN xxxiii Các bộ chủ quản – đặc biệt là nông nghiệp, y tế, thương mại và môi trường ŠŠ Cập nhật khuôn khổ pháp lý liên quan đến bảo vệ và sử dụng đất nông nghiệp, quy hoạch sử dụng đất, thương mại hóa và sử dụng hóa chất nông nghiệp và thuốc thú y, cũng như các quyền và trách nhiệm khác liên quan đến sản xuất nông nghiệp cơ bản. ŠŠ Định lượng, ở cấp quốc gia hoặc địa phương, cạnh tranh trong tương lai giữa các mục đích sử dụng đất, nước và tài nguyên cho nông nghiệp, nhà ở, công nghiệp, và mục đích sử dụng khác ở đô thị và ngoại ô, đồng thời xác định rõ các phương án chính sách liên quan và đánh đối đối với các nhà hoạch định chính sách của thành phố và quốc gia. ŠŠ Cập nhật khung quy định liên quan đến vận chuyển hàng hóa, dịch vụ hậu cần, và thương mại điện tử, để phản ánh nhu cầu và thách thức cụ thể của việc phân phối thực phẩm và hậu cần. ŠŠ Cung cấp hướng dẫn kỹ thuật cho các thành phố để áp dụng các phương pháp tiếp cận dựa trên rủi ro trong quản lý an toàn thực phẩm, sức khỏe động vật và bảo vệ môi trường, và đặc biệt để giám sát, đánh giá, thực thi quy định và truyền thông về rủi ro. ŠŠ Điều chỉnh các cuộc tổng điều tra theo ngành (trang trại, doanh nghiệp và lao động) và công cụ thu thập dữ liệu khác ở cấp trung ương để có được nhiều thông tin hơn và tốt hơn về thực tế hệ thống lương thực đô thị. ŠŠ Xây dựng kế hoạch quốc gia về phát triển cơ sở hạ tầng chợ thực phẩm và nông sản công cộng (bao gồm cả chợ đầu mối) để cho phép các sáng kiến cấp thành phố hoặc cấp tỉnh được đánh giá và tài trợ trong khuôn khổ của hệ thống chợ tổng thể của quốc gia (theo cấp bậc hoặc mạng lưới). Công ty thực phẩm lớn và hiệp hội ngành thực phẩm ŠŠ Tham gia các quy trình đánh giá và thiết lập thứ tự ưu tiên các thách thức và cơ hội của hệ thống thực phẩm thành phố–khu vực, đồng thời vạch ra mục tiêu và lộ trình dài hạn để hiện thực hóa những mục tiêu này với trọng tâm là cải thiện môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp liên quan đến thực phẩm. ŠŠ Đóng vai trò tích cực trong các ủy ban ứng phó khủng hoảng của thành phố–khu vực và đóng vai trò hội đồng giải quyết các vấn đề an toàn sinh học, bùng phát về an toàn thực phẩm, hiện tượng thời tiết bất lợi, hoặc cú sốc khác đối với hệ thống thực phẩm địa phương, khi những vấn đề này xảy ra. ŠŠ Lập kế hoạch và tham gia các sáng kiến công–tư để giải quyết tình trạng mất an ninh lương thực đô thị và thúc đẩy cơ hội tiếp cận thực phẩm lành mạnh với mức giá hợp lý, đặc biệt các nhóm người nghèo và dễ bị tổn thương. ŠŠ Tổ chức hành động chung để tăng cường nhận thức của các đơn vị kinh doanh thực phẩm về rủi ro an toàn thực phẩm, tạo điều kiện cho việc áp dụng thực hành tốt về nông nghiệp, sản xuất, và xử lý thực phẩm, và các chương trình hỗ trợ để cải thiện sự minh bạch và khả năng truy xuất nguồn gốc thực phẩm và mầm bệnh. ŠŠ Phối hợp với các cơ quan chính quyền thành phố để xây dựng hệ thống quy định, chính sách ưu đãi, quy tắc hoạt động, và các chương trình hỗ trợ nhằm giảm thiểu chất thải thực phẩm đô thị và đóng góp cho nền kinh tế sinh học của địa phương. ŠŠ Khởi xướng và thực hiện các chương trình để cải thiện thành phần dinh dưỡng của thực phẩm và đồ uống chế biến thông qua cải tiến sản phẩm, phát triển sản phẩm mới, hoặc các phương thức khác. Phối hợp với các cơ quan chính quyền thành phố và quốc gia trong các chương trình cải thiện hồ sơ dinh dưỡng của thực phẩm tiêu thụ trong trường học, doanh nghiệp, và căng tin cơ quan khác. ŠŠ Hợp tác với chính quyền thành phố và các bên liên quan để phát triển các trung tâm đổi mới nông nghiệp, khu công nghệ cây trồng và địa điểm khác để thử nghiệm và áp dụng công nghệ mới và giải quyết rủi ro mới. Tại các thành phố lớn hơn và các trung tâm khu vực, hợp tác với các trường đại học địa phương hoặc các trường khác để tạo ra các cơ sở ươm tạo hoặc thúc đẩy thực phẩm nông nghiệp cho các doanh nghiệp và doanh nghiệp xã hội. xxxiv THỰC PHẨM TỐT, THÀNH PHỐ AN TOÀN Các tổ chức học thuật (nghiên cứu và giáo dục) ŠŠ Thực hiện và phổ biến những nghiên cứu giải quyết lỗ hổng kiến thức và các xu hướng mới nổi liên quan đến cấu trúc và hiệu quả của hệ thống thực phẩm, nhận thức và hành vi của người tiêu dùng, an ninh lương thực và dinh dưỡng, rủi ro hệ thống thực phẩm, và các vấn đề khác liên quan đến hệ thống thực phẩm đô thị châu Á. ŠŠ Thực hiện đánh giá và đánh giá tác động đối với các chính sách và chương trình thực phẩm đô thị và đề xuất các giải pháp để cải thiện mục tiêu, hiệu quả chi phí và kết quả công bằng. ŠŠ Đào tạo thế hệ tiếp theo các doanh nhân và nhà quản lý/kỹ thuật viên nông nghiệp trong các hệ thống sản xuất và phân phối thực phẩm bền vững. ŠŠ Hỗ trợ chính quyền quốc gia và thành phố trong thiết kế các chương trình vận động chính sách và hình thức truyền thông khác nhằm mang lại thay đổi hành vi của người nông dân, người tiêu dùng, người bán thực phẩm, và những đối tượng khác. Đối tác phát triển quốc tế ŠŠ Tạo điều kiện thuận lợi cho đối thoại đa bên ở cấp thành phố dẫn đến việc thiết lập thứ tự ưu tiên, kế hoạch chiến lược, và lập kế hoạch đầu tư hoặc chương trình liên quan đến hệ thống lương thực–thực phẩm. ŠŠ Giúp củng cố cơ sở thực nghiệm cho việc ra quyết định liên quan đến thực phẩm của các thành phố bằng cách hợp đồng ủy thác hoặc chia sẻ chi phí triển khai khảo sát người tiêu dùng và các bên liên quan khác, phân tích an ninh thực phẩm và dinh dưỡng, đánh giá rủi ro môi trường và an toàn thực phẩm và công tác chẩn đoán khác. ŠŠ Hỗ trợ mạng lưới đa năng và các phương thức quản lý kiến thức khác để chia sẻ kinh nghiệm và bài học về “điều gì hiệu quả” và “điều gì không hiệu quả” trong can thiệp chi phí. ŠŠ Hỗ trợ từng thành phố (i) tích hợp các vấn đề về hệ thống lương thực– thực phẩm trong phương thức và thể chế rộng hơn trong quản trị thành phố, (ii) thực hiện nghiên cứu khả thi và cuối cùng tài trợ đầu tư công để hỗ trợ sản xuất lương thực – thực phẩm đô thị (và ven đô) và hạ tầng thị trường, và (iii) thực hiện các chương trình khác yêu cầu nâng cao năng lực quản lý hoặc thay đổi hành vi của các bên liên quan từ nông trại đến bàn ăn. Tổ chức xã hội dân sự ŠŠ Tham gia quy trình đánh giá và thiết lập thứ tự ưu tiên các thách thức và cơ hội của hệ thống lương thực– thực phẩm thành phố–khu vực, đồng thời vạch ra mục tiêu và lộ trình dài hạn để hiện thực hóa những mục tiêu đó với trọng tâm là bảo vệ người tiêu dùng và môi trường, cũng như lợi ích của các bên liên quan thuộc nhóm người nghèo và dễ bị tổn thương trong hệ thống lương thực–thực phẩm đô thị. ŠŠ Vận động cho quyền của nông dân đô thị và ven đô và bảo vệ đất nông nghiệp, hỗ trợ pháp lý khi cần thiết. ŠŠ Vận động để bảo vệ người tiêu dùng thành thị, bao gồm cả trẻ em đang đi học, trước những gian lận hoặc quảng cáo sai về thực phẩm, quản lý an toàn thực phẩm chưa tốt, trục lợi khủng hoảng thực phẩm, v.v…, cung cấp hỗ trợ pháp lý khi cần thiết. ŠŠ Vận động ủng hộ các quyền và điều kiện làm việc an toàn của doanh nghiệp thực phẩm siêu nhỏ và cơ sở kinh doanh thức ăn đường phố và chợ, đồng thời tạo điều kiện thực hiện các chương trình cải thiện điều kiện làm việc và phương thức hoạt động của các doanh nghiệp này. ŠŠ Hỗ trợ chính quyền thành phố và quốc gia và các bên liên quan thực hiện các chương trình mục tiêu nhằm giải quyết tình trạng mất an ninh lương thực, chế độ ăn chất lượng thấp và thực phẩm không an toàn ở các khu dân cư có thu nhập thấp và các khu định cư phi chính thức trong các thành phố. TÓM TẮT TỔNG QUAN xxxv