2012 báo cáo phát triển thế giới TỔNG QUAN BÌNH ĐẲNG GIỚI VÀ PHÁT TRIỂN 2012 báo cáo phát triển thế giới Bình đẳng giới và Phát triển 2012 báo cáo phát triển thế giới Bình đẳng giới và Phát triển Tổng quan NGÂN HÀNG THẾ GIỚI ©2010 Ngân hàng Quốc tế về Tái thiết và Phát triển/Ngân hàng Thế giới 1818 H Street NW Washington DC 20433 Điện thoại: 202-473-1000 Internet: www.worldbank.org E-mail: feedback@worldbank.org Tập sách này là sản phẩm của các cán bộ thuộc Ngân hàng Quốc tế về Tái thiết và Phát triển/ Ngân hàng Thế giới. Các kết quả tìm hiểu, các giải thích và kết luận đưa ra trong tập sách này không phản ánh quan điểm chính thức của Ban Giám đốc điều hành Ngân hàng Thế giới hoặc các chính phủ mà họ đại diện. Ngân hàng Thế giới không đảm bảo tính chính xác của các dữ liệu trong tập sách này. Đường biên giới, màu sắc, tên gọi và các thông tin khác biểu hiện trên các bản đồ trong tập sách này không hàm ý bất kỳ đánh giá nào của Ngân hàng Thế giới về vị thế pháp lý của bất kỳ vùng lãnh thổ nào và cũng không thể hiện bất kỳ sự ủng hộ hay chấp nhận nào của Ngân hàng về các đường biên giới đó. Các quyền và giấy phép Tài liệu của ấn bản này đã được bảo hộ bản quyền. Việc sao chép và/hoặc chuyển giao bất kỳ phần nào hay toàn bộ nội dung của tài liệu mà không có giấy phép có thể bị coi là hành vi vi phạm pháp luật. Ngân hàng Quốc tế về Tái thiết và Phát triển/Ngân hàng Thế giới khuyến khích việc phổ biến tài liệu này và trong các điều kiện bình thường, sẽ cấp phép chế bản các phần của tài liệu một cách phù hợp. Để được phép sao chép hoặc in lại bất kỳ phần nào của tài liệu này, hãy gửi yêu cầu với đầy đủ thông tin đến Trung tâm Cấp phép Sử dụng bản quyền, 222 Rosewood Drive, Danvers, MA 01923, Hoa Kỳ; số điện thoại: 978-750-8400; fax: 978-750-4470; Internet: www.copyright. com. Tất cả các câu hỏi khác liên quan đến quyền và giấy phép, kể cả nhượng bản quyền, phải được gửi về Văn phòng Nhà xuất bản, Ngân hàng Thế giới, 1818 H Street NW, Washington, DC 20433, USA; fax: 202-522-2422; e-mail: pubrights@worldbank.org Ảnh bìa: Arne Hoel, Ngân hàng Thế giới Photo credits: Ngân hàng Thế giới Thiết kế bìa: Critical Stages Thiết kế bảng biểu, số liệu: Design Symphony, Cymetrics, Harkness Design và Naylor Design Mục lục Lời nói đầu   vii Lời cảm ơn   ix Tổng quan Vì sao bình đẳng giới lại quan trọng đối với phát triển?   2 Mục đích của báo cáo   6 Nơi nào đạt được nhiều tiến bộ nhất về bình đẳng giới?    8 Bất bình đẳng giới tồn tại dai dẳng ở những đâu và vì sao?   14 Cần phải làm gì?   23 Kinh tế học chính trị về cải cách đối với bình đẳng giới   35 Chương trình toàn cầu về tăng cường bình đẳng giới   36 Chú thích    42 Tài liệu tham khảo   44 v Lời Nói Đầu Cuộc sống của phụ nữ và trẻ em gái đã có nhiều thay đổi trong ¼ thế kỷ qua. Ngày nay đã có nhiều phụ nữ và trẻ em gái biết chữ hơn bao giờ hết, cũng như ở 1/3 số nước đang phát triển đã có nhiều trẻ em gái đi học hơn trẻ em trai. Phụ nữ hiện chiếm hơn 40% lực lượng lao động toàn cầu. Hơn thế nữa, phụ nữ còn có tuổi thọ cao hơn nam giới ở hầu hết mọi nơi trên thế giới. Đây là một tốc độ thay đổi phi thường – đặc biệt, ở nhiều nước đang phát triển, sự thay đổi còn diễn ra nhanh hơn các nước phát triển: nếu như Mỹ phải mất 40 năm để tăng tỉ lệ trẻ em gái đi học thì ở Marốc chỉ mất 10 năm. Tuy nhiên, ở một số khu vực, tốc độ tiến bộ về bình đẳng giới còn hạn chế - kể cả ở những nước phát triển. Phụ nữ và trẻ em gái nghèo, sống ở vùng sâu, vùng xa, người tàn tật hay dân tộc thiểu số tiếp tục là những đối tượng chịu thiệt thòi. Có quá nhiều trẻ em gái và phụ nữ vẫn tử vong ngay từ giai đoạn trẻ nhỏ và độ tuổi sinh đẻ. Phụ nữ vẫn có mức thu nhập và năng suất lao động, cũng như có tiếng nói thấp hơn trong xã hội. Tuy vậy, ở một số lĩnh vực như giáo dục, đã xuất hiện khoảng cách về giới với phần thiệt thòi nghiêng về nam giới và trẻ em trai. Thông điệp chính của Báo cáo Phát triển Thế giới năm nay: Bình đẳng giới và Phát triển là những mô hình tiến bộ trên và sự tồn tại dai dẳng của vấn đề bình đẳng giới là vấn đề cần quan tâm, cả trong các mục tiêu phát triển và quá trình hoạch định chính sách. Quan trọng là vì bản thân bình đẳng giới đã chính là một mục tiêu phát triển quan trọng. Nhưng tăng cường bình đẳng giới cũng là sự khôn ngoan về mặt kinh tế học, nhờ nâng cao năng suất lao động và cải thiện các mục tiêu phát triển khác, trong đó có cả tương lai của thế hệ sau và vì chương trình của các chính sách và thể chế xã hội. Phát triển kinh tế là không đủ để xóa bỏ mọi tình trạng bất bình đẳng giới – vì vậy, cần có những chính sách bổ sung chú trọng vào giải quyết những vấn đề bất bình đẳng giới tồn tại dai dẳng. Báo cáo này tập trung vào 4 lĩnh vực ưu tiên về cải cách chính sách. Thứ nhất là giảm bất bình đẳng giới về nguồn vốn con người – nhất là bất bình đẳng trong tỉ lệ tử vong và trình độ học vấn của phụ nữ. Thứ hai là giảm bất bình đẳng giới trong tiếp cận các cơ hội kinh tế, thu nhập và năng suất lao động. Thứ ba là giảm bất bình đẳng giới về tiếng nói và năng lực trung gian trong xã hội. Thứ tư là hạn chế sự tái diễn của tình trạng bất bình đẳng giới từ thế hệ này qua thế hệ khác. Đây đều là những lĩnh vực trong đó nếu chỉ bằng cách tăng thu nhập đơn thuần sẽ không có tác dụng nhiều trong việc giảm bất bình đẳng giới mà chỉ có các giải pháp chính sách tập trung mới có thể có tác động thực sự. Cần có những giải pháp công để tác động đến những nguyên nhân cơ bản của tình trạng bất bình đẳng giới trong những lĩnh vực ưu tiên – trong một số trường hợp là cải thiện mức cung ứng dịch vụ (nhất là về nước sạch, vệ sinh và chăm sóc sức khỏe bà mẹ), ngoài ra là giải quyết những tồn tại về chức năng của thị trường và các thể chế đang kìm hãm sự phát triển (như giảm bất bình đẳng giới về thu nhập và năng suất lao động). Mọi đối tác phát triển đều có thể góp phần vào hành động chung. Mỗi một lĩnh vực trên đều cần nguồn vốn (nhất là vốn hỗ trợ cho những nước nghèo nhất để giảm tử vong phụ nữ và bất bình đẳng giới trong giáo dục); tăng cường số liệu theo từng giới; tăng cường thử vii viii L Ờ I N Ó I ĐẦU nghiệm và đánh giá có hệ thống; cũng như mở rộng hợp tác trong đó thu hút khu vực tư nhân, các tổ chức phát triển và các tổ chức xã hội. Bình đẳng giới chính là nội dung trọng tâm của quá trình phát triển. Đó là một mục tiêu phát triển đúng đắn và là một chính sách kinh tế khôn ngoan. Báo cáo Phát triển Thế giới 2012 giúp cả các quốc gia và đối tác phát triển quốc tế suy ngẫm và lồng ghép những ưu tiên bình đẳng giới vào quá trình xây dựng chính sách và chương trình phát triển. Robert B. Zoellick Chủ tịch Nhóm Ngân hàng Thế giới Lời Cảm Ơn Báo cáo này được thực hiện bởi nhóm chuyên gia đứng đầu là các ông bà Ana Revenga và Sudhir Shetty, cùng các thành viên Luis Benveniste, Aline Coudouel, Jishnu Das, Markus Goldstein, Ana María Muñoz Boudet và Carolina Sánchez-Páramo. Tham gia hỗ trợ nghiên cứu có các ông bà Rabia Ali, María Inés Berniell, Rita Costa, Nina Rosas, và Lucía Solbes Castro. Đánh giá định tính đa quốc gia được điều phối bởi các ông bà Patti L. Petesch và Carolyn Turk. Báo cáo có sự đóng góp quý báu của các ông bà Andre Croppenstedt, Malcolm Ehrenpreis, Rebekka Grun, Mary Hallward-Driemeier, Tazeen Hasan, Karla Hoff, Ghazala Mansuri, Claudio E. Montenegro và Bob Rijkers. Báo cáo Phát triển Thế giới 2012 được đồng tài trợ của Văn phòng Phó Chủ Tịch Mạng lưới Kinh tế Phát triển (DEC) và Văn phòng Phó Chủ tịch phụ trách Giảm nghèo và Quản lý Kinh tế (PREM). Báo cáo được thực hiện với sự hướng dẫn chung của các ông bà Justin Yifu Lin thuộc DEC và Otaviano Canuto dos Santos Filho thuộc PREM. Bà Ann E. Harrison, nhóm DEC cùng bà Mayra Buvinic và nhóm Công tác giới của PREM (PRMGE) đã có những đóng góp và hướng dẫn quý báu cho nhiều nội dung quan trọng của báo cáo. Ban cố vấn gồm các ông bà Bina Agarwal, Ragui Assad, Anne Case, Alison Evans, Raquel Fernández, Naila Kabeer, Ravi Kanbur, Santiago Levy và Germano Mwabu đã có nhiều ý kiến đóng góp quý báu cho báo cáo. Các ông bà Kathleen Beegle, Laura Chioda, Louise Cord, Maria Correia, Monica Das Gupta, Shantayanan Devarajan, Marianne Fay, Francisco H. G. Ferreira, Ariel Fiszbein, Indermit Gill, Alejandro Hoyos, Emmanuel Jime- nez, Elizabeth King, Andrew Mason, William Maloney, Ambar Narayan, Pierella Paci, Tara Vishwanath và Michael Walton đã có những ý kiến đóng góp quan trọng cho báo cáo. Nhiều tổ chức, cá nhân khác cả trong và ngoài Ngân hàng Thế giới cũng đã có những ý kiến đóng góp xác đáng cho báo cáo (xem danh sách trong phần Tư liệu Tham khảo). Chủ tịch Ngân hàng Thế giới Robert B. Zoellick và các Tổng Giám đốc Sri Mulyani Indrawati, Mahmoud Mohieldin, Ngozi Okonjo-Iweala đã tham gia chỉ đạo và tư vấn cho báo cáo. Nhóm tác giả sử dụng nhiều tư liệu từ các cuộc họp tham vấn, hội nghị, hội thảo khu vực tổ chức ở các địa phương và các nước. Những sự kiện trên có sự tham gia của các nhà hoạch định chính sách, đại diện của các tổ chức xã hội, các viện, trường và các đối tác phát triển từ Bênanh, Bôlivia, Buốckina Phaxô, Burunđi, các quốc gia vùng Caribê, CH Trung Phi, Chilê, Côlômbia, CH Đômimich, Gioocgia, Goatêmala, Ấn Độ, Inđônêxia, Gioocđani, Kênya, Côoét, Libăng, Mali, Mêhicô, Marốc, Panama, Paraguay, Ruanđa, Xênêgan, CH Slôvaki, Nam Phi, Xuđăng, Tandania, Thái Lan, Tôgô, Thổ Nhĩ Kỳ, Uganđa, Uruguay, Việt Nam, Dămbia và Dimbabuê. Trong quá trình thực hiện báo cáo, chúng tôi cũng tổ chức nhiều đợt tham vấn với đại diện của các đối tác đa phương và song phương, như Cơ quan Phát triển Quốc tế Ốtxtrâylia (AUSAID), Cơ qua Phát triển Quốc tế Canađa (CIDA), Ủy ban Phụ nữ Liên Mỹ - Hiệp hội các Quốc gia châu Mỹ (CIM-OAS), Cơ quan Phát triển Quốc tế Đan Mạch (DANIDA), Bộ Phát triển Quốc tế Anh (DFID), Tổ chức Nông Lương (FAO), Tổ chức hợp tác quốc tế của Nhật Bản (JICA), Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), Bộ Ngoại giao Phần Lan, ix x LỜI CẢM ƠN MCC, NORAD, Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển – Ban Hỗ trợ Phát triển (OECD-DAC), Gendernet, Cơ quan Phát triển Hợp tác Thụy Sỹ (SDC), Cơ qua Hợp tác Phát triển Quốc tế Thụy Điển (SIDA), Tổ chức Phụ nữ LHQ, Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc (UNICEF), Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID), Ủy ban lần thứ 55 của Hội đồng Kinh tế Xã hội Liên hợp quốc (ECOSOC) về Vị thế của Phụ nữ. Nhóm tác giả cũng xin cảm ơn sự hỗ trợ quý báu của Chính phủ Nauy thông qua Bộ Ngoại giao Hoàng gia Nauy, SDC, USAID, CIDA, Chính phủ Thụy Điển thông qua Bộ Ngoại giao Thụy Điển, Chương trình đa phương Kiến thức để Tiến bộ (KCP), Quỹ Nike, Quỹ Tín thác Bắc Âu Ngân hàng Thế giới và Quỹ Phát triển Chương trình Giáo dục Sáng kiến Thúc đẩy; cũng như các hỗ trợ bằng hiện vật của JICA, DFID và OECD. Nhóm báo cáo cảm ơn sự hỗ trợ nhiệt tình của nhóm thực hiện Báo cáo Phát triển Thế giới bao gồm các thành viên Rebecca Sugui, Cecile Wodon, Mihaela Stangu, và nhóm quản lý nguồn lực gồm Sonia Joseph và Evangeline Santo Domingo. Chúng tôi cũng xin cảm ơn các ông bà Ivar Cederholm, Vivian Hon, Jimmy Olazo và Irina Sergeyeva đã thường xuyên hỗ trợ. Xin cảm ơn sự trợ giúp quý báu của các ông bà Gytis Kanchas và Nacer Mohamed Megherbi. Vamsee Krishna Kanchi, Swati P. Mishra, Merrell Tuck-Primdahl và Roula Yazigi đã tham gia hỗ trợ nhóm trong xây dựng website và các hoạt động truyền thông. Bruce Ross-Larson là biên tập viên chính của báo cáo. Nhóm Số liệu Phát triển đã đóng góp vào phụ lục số liệu và chịu trách nhiệm về phần Chỉ số Chọn lọc Phát triển Thế giới. Hãng Design Symphony đóng góp vào thiết kế của báo cáo. Báo cáo Phát triển Thế giới 2012: Bình đẳng giới và Phát triển Tổng quan Baruani nhớ lại từng bước sự thay đổi trong cuộc sống của những con người ở Ijuhanyondo, một ngôi làng ở Tanzania, trong 10 năm qua. Cô kể lại: “Mười năm trước thật là kinh khủng. Phụ nữ chịu rất nhiều thiệt thòi. Hồi đó, phụ nữ chỉ được ở nhà làm công việc nội trợ. Nhưng giờ đây họ đi làm và còn tham gia cả chính trường nữa.” Nhiều người khác cũng cùng chung quan điểm. Agnetha cho biết: “Chúng tôi không còn lệ thuộc nhiều vào nam giới như trước đây nữa. Chúng tôi đã có tiền riêng và nhờ đó không còn lệ thuộc vào nam giới, cũng như ở một chừng mực nào đó tự định đoạt được cuộc đời của mình.” Không những tự quản lý doanh nghiệp của mình, phụ nữ giờ đây cũng chiếm tới một nửa số thành viên ban dân phố của thôn. Tuy đã có nhiều thay đổi tích cực nhưng nhiều khó khăn vẫn đè nặng lên cuộc sống hàng ngày của người phụ nữ. Trong thôn chưa tới một nửa số hộ gia đình có nước máy. Hơn thế nữa, Tungise và một số phụ nữ khác trong thôn vẫn sống trong nỗi sợ hãi bị chồng bạo hành: “Khi say rượu, họ thường đánh đập phụ nữ, trẻ nhỏ trong nhà. Điều tệ hại nhất là họ còn cưỡng bức phụ nữ quan hệ tình dục.” Về mặt pháp lý, tuy phụ nữ được thừa hưởng đất đai hay nhà cửa, nhưng về mặt truyền thống thì không phải như vậy. Flora, bí thư thường trực ban dân phố nói: “Đúng, phụ nữ có thể thừa hưởng đất đai, nhà cửa. Trên thực tế, trong di chúc, người cha phải để lại cho cả con trai lẫn con gái một chút của cải nào đó, và ngày nay luật pháp đã quy định chặt chẽ hơn là phải bình đẳng trong thừa kế. Dù vậy, nam giới vẫn để tài sản lại cho con trai với lý do rằng con gái đã được hưởng tài sản của nhà chồng rồi.” Báo cáo về Cộng đồng nông thôn ở Dodoma, trong nghiên cứu “Khái niệm giới trong thế kỷ 21: Trao đổi với phụ nữ và nam giới trên khắp thế giới: Nghiên cứu định tính đa quốc gia về Giới và Lựa chọn kinh tế” (Ngân hàng Thế giới 2011): VÌ SAO BÌNH ĐẲNG GIỚI LẠI QUAN như sở hữu tài sản, thừa kế, hôn nhân. Tổng cộng TRỌNG ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN? có 136 nước hiện nay đã quy định công khai bảo vệ quyền bình đẳng giữa mọi công dân và chống Câu chuyện về làng Ijuhanyondo ở Tan-za-nia phân biệt đối xử nam nữ trong hiến pháp. phản ánh sự tiến triển của vấn đề bình đẳng giới Tuy nhiên, những tiến bộ trên không phải trên khắp thế giới trong ¼ thế kỷ qua. Tuy nhiều dễ dàng mà có. Các thành quả cũng không đến phụ nữ vẫn đang phải tiếp tục vật lộn với những một cách đồng đều ở mọi nước hay đối với mọi thiệt thòi về giới trong cuộc sống hàng ngày phụ nữ, cũng như trên mọi bình diện của vấn đề nhưng tình hình đã được cải thiện với một tốc bình đẳng giới. Tỉ lệ phụ nữ tử vong trong sinh độ chưa từng thấy ngay cả so với 20 năm trước. đẻ ở vùng Hạ Xahara Châu Phi và một số khu Phụ nữ đã được hưởng những lợi ích chưa từng vực ở Nam Á vẫn cao ngang với mức của khu có về quyền, về học hành, sức khỏe, việc làm và vực Bắc Âu hồi thế kỷ 19. Trẻ em nhà giàu thành đời sống. Chưa bao giờ có nhiều quốc gia như thị ở Nigiêria, kể cả nam và nữ, đi học trung hiện nay bảo đảm quyền bình đẳng cho phụ nữ bình 10 năm, trong khi trẻ em gái nghèo nông và nam giới theo luật pháp trong những lĩnh vực thôn ở Hausa chỉ đi học trung bình 6 tháng. Tỉ lệ Tổng quan 3 phụ nữ tử vong so với nam giới ở các nước thu qua năm 1979, xác lập khuôn khổ toàn diện về nhập thấp và trung bình cao hơn so với các nước thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ và đến nay đã thu nhập cao, đặc biệt là trong những năm quan được 187 quốc gia phê chuẩn. trọng của giai đoạn sơ sinh và trẻ nhỏ, cũng như trong độ tuổi sinh đẻ. Do ly dị hay góa bụa mà Bình đẳng giới có vai trò quan trọng đối nhiều phụ nữ trở thành tay trắng, không đất đai, với phát triển và là sự khôn ngoan về kinh không tài sản. Phụ nữ vẫn tập trung nhiều trong tế học những ngành nghề được coi là của “nữ giới”, Bình đẳng giới cũng quan trọng với vai trò là nhiều ngành có mức lương thấp. Phụ nữ cũng công cụ để phát triển. Như trình bày trong báo dễ trở thành nạn nhân của bạo lực gia đình hơn cáo, bình đẳng giới là sự khôn ngoan về kinh tế: và thường phải chịu những thương tích nghiêm bình đẳng giới nâng cao hiệu quả kinh tế và cải trọng hơn. Ở hầu như mọi nơi, sự hiện diện của thiện kết quả các mục tiêu phát triển khác theo phụ nữ trong lĩnh vực chính trị và ở các vị trí ba cách. Thứ nhất, xóa bỏ những rào cản để phụ quản lý cao cấp trong doanh nghiệp vẫn ít hơn nữ được tiếp cận bình đẳng như nam giới về học nhiều so với nam giới. hành, cơ hội kinh tế và đầu vào sản xuất sẽ tạo Những mô hình bất bình đẳng giới về quyền ra bước tiến lớn về năng suất, đặc biệt trong bối con người và sở hữu vật chất, về cơ hội kinh tế, cảnh một thế giới ngày càng cạnh tranh cao hơn cũng như khả năng được chọn lựa để đạt những và toàn cầu hóa. Thứ hai, nâng cao vị thế tuyệt mục tiêu (năng lực trung gian) mong muốn trên đối và tương đối của người phụ nữ có lợi cho việc có thực sự có ý nghĩa gì không, đặc biệt là những đạt được nhiều mục tiêu phát triển khác, trong mô hình vẫn tiếp tục tồn tại kể cả khi tiến trình đó có những mục tiêu về trẻ em. Thứ ba, việc tạo phát triển diễn ra mạnh mẽ? Báo cáo Phát triển sân chơi bình đẳng, trong đó cả nam giới và phụ Thế giới (BCPTTG) lần này khẳng định là vì hai nữ đều có cơ hội như nhau về hoạt động xã hội, lý do sau. Thứ nhất, bình đẳng giới bản thân nó chính trị, ra quyết định, xây dựng chính sách, sẽ đã có sẵn ý nghĩa, vì việc được sống cuộc đời dần dần đem lại những thể chế và lựa chọn chính mỗi người theo lựa chọn của bản thân mà không sách mang tính đại diện, bao quát cao hơn và từ phải chịu những sự tước đoạt vô lý chính là một đó dẫn tới một con đường phát triển tốt đẹp hơn. quyền con người cơ bản và giữa mọi người phải Sau đây, ta hãy xem xét lần lượt từng yếu tố. có sự bình đẳng, cho dù là nam hay nữ. Thứ hai, bình đẳng giới có ý nghĩa về mặt phương tiện, vì Phân bổ thiếu hợp lý kỹ năng, tài năng của bình đẳng giới càng cao thì càng tăng hiệu quả phụ nữ dẫn đến chi phí kinh tế cao (và ngày kinh tế và đạt được những mục tiêu phát triển một tăng): quan trọng khác nhiều hơn. Bình đẳng giới có tác động lớn đến năng suất lao động. Phụ nữ hiện chiếm hơn 40% lực lượng Bình đẳng giới tự thân nó đã có ý nghĩa: lao động toàn cầu, 43% lực lượng lao động nông Theo Amartya Sen, chúng ta nhìn nhận sự phát nghiệp và hơn một nửa số sinh viên đại học trên triển như một quá trình mở rộng quyền tự do toàn thế giới. Để một nền kinh tế vận hành đúng bình đẳng cho mọi người.1 Trong quan niệm về tiềm năng, những kỹ năng và tài năng của phụ phát triển này, bình đẳng giới chính là một mục nữ phải được sử dụng vào những hoạt động cho tiêu trọng tâm (Hộp 1). Vì vậy, chính vì phát phép những khả năng đó phát huy được tối đa triển đồng nghĩa với giảm nghèo hay tăng cường hiệu quả. Nhưng, như đã thấy qua câu chuyện bình đẳng, phát triển cũng đồng thời có nghĩa là của nhiều phụ nữ, điều này trên thực tế không thu hẹp khoảng cách về quyền lợi giữa nam và phải lúc nào cũng thực hiện được. Khi lao động nữ. Quan điểm này cũng được thể hiện rõ trong của phụ nữ bị lãng phí hay sử dụng sai mục đích, khẳng định của cộng đồng phát triển quốc tế rằng mà lý do là sự phân biệt đối xử trên thị trường trao quyền cho phụ nữ và bình đẳng giới chính là hay các thể chế xã hội khiến phụ nữ học hành những mục tiêu phát triển, như đã nêu trong các dang dở, phải làm một số nghề nhất định, không Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ số 3 và 5 (Hộp có được cùng mức thu nhập như nam giới, thì 2). Điều này cũng được công nhận bằng sự phê kết quả sẽ là thất thoát về kinh tế. Khi người phụ chuẩn rộng rãi Công ước về Xóa bỏ mọi loại hình nữ nông thôn không được bảo đảm quyền sử Phân biệt đối xử đối với Phụ nữ (CEDAW). Công dụng đất như ở nhiều nước, nhất là ở Châu Phi, ước này được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông thì kết quả sẽ là khả năng tiếp cận tín dụng, đầu vào thấp, cũng như hiệu quả sử dụng đất thấp, 4 B Á O C Á O P HÁT T R I Ể N T H Ế G I Ớ I 2 0 1 2 HỘP 1 Bình đẳng giới nghĩa là gì? Giới chỉ những đặc điểm, kỳ vọng, chuẩn mực xã hội, hành vi, bình đẳng nảy sinh từ những hoàn cảnh khách quan và những văn hóa gắn với phụ nữ hay nam giới. Bình đẳng giới có nghĩa là bất bình đẳng bắt nguồn tự sự khác nhau trong ưu tiên và lựa chọn. những yếu tố này xác định mối quan hệ giữa phụ nữ và nam giới Khá nhiều nghiên cứu xác định những khác biệt giữa nam và nữ trên như thế nào, cũng như những sự khác biệt về quyền lực tạo ra giữa theo mức độ né tránh rủi ro, ưu tiên xã hội, thái độ về cạnh tranh. phụ nữ và nam giới. Những nghiên cứu này cho rằng nếu nam và nữ có sự khác biệt, ít Báo cáo sẽ tập trung vào 3 yếu tố chính của bình đẳng giới được nhất về thái độ, ưu tiên, lựa chọn, thì không thể gán mọi sự khác biệt xác định bởi cả nam giới và phụ nữ từ Apganixtan tới Ba Lan và Nam quan sát được trong kết quả cho những khác biệt về cơ hội. Phi, cũng như bởi các nhà nghiên cứu: sự tích tụ quyền lợi (học Những người thiên về bình đẳng trong kết quả lý luận rằng sự hành, sức khỏe, tài sản vật chất); việc sử dụng những quyền lợi đó khác nhau trong ưu tiên và thái độ chủ yếu là do “tiếp thu” được chứ để nắm bắt các cơ hội kinh tế và tạo thu nhập; và việc sử dụng không phải có sẵn, có nghĩa là, đó là kết quả của văn hóa và môi những quyền lợi hay năng lực trung gian đó để hành động, ảnh trường khiến nam giới và phụ nữ định hình nên những chuẩn mực, hưởng đến quyền lợi của cá nhân hay hộ gia đình. Đây là những yếu kỳ vọng xã hội của bản thân. Sự khác biệt đã có từ lâu về quyền lực tố về bình đẳng trong đó những hạn chế về lựa chọn được phản ánh và địa vị của nam và nữ có thể trở thành đặc trưng nội tại thể hiện trong hạn chế về phúc lợi. Bản thân những yếu tố này tự nó đã có ý qua khát vọng, hành vi, ưu tiên giúp duy trì những sự bất bình đẳng nghĩa. Nhưng chúng cũng có liên hệ mật thiết với nhau. đó. Như vậy, rất khó có thể xác định được bình đẳng về cơ hội mà Bất bình đẳng giới vừa giống vừa khác với bất bình đẳng dựa không xem xét các kết quả thực tế được phân bổ ra sao. Chỉ bằng trên những đặc điểm khác như chủng tộc, sắc tộc. Có 3 sự khác biệt cách bình đẳng hóa kết quả mới có thể phá vỡ được vòng tròn luẩn đặc biệt phù hợp với phân tích về bình đẳng giới. Thứ nhất, khó có quẩn về kỳ vọng và cơ hội thấp. thể xác định tách biệt mức độ phúc lợi của nam giới và phụ nữ cùng Mặc dù đã có những tranh luận trên nhưng trên thực tế vẫn khó sống trong một hộ gia đình và đây là một vấn đề càng trở nên trầm có thể xác định tách biệt cơ hội và kết quả. Bình đẳng về cơ hội và trọng do thiếu số liệu về các hệ quả đối với hộ gia đình. Thứ hai, bình đẳng về kết quả thực sự có liên hệ mật thiết cả về lý thuyết và những ưu tiên, nhu cầu, hạn chế có sự khác biệt một cách hệ thống cách xác định. Vì lẽ đó, báo cáo sẽ áp dụng một phương thức thực giữa nam giới và nữ giới, thể hiện cả những yếu tố sinh lý và hành vi tiễn, chú trọng cả vào kết quả và cơ hội liên quan đến quyền lợi, xã hội “tiếp thu” được. Thứ ba, giới là vấn đề xuyên suốt mọi phân năng lực trung gian và mức tiếp cận hoạt động kinh tế. Theo Sen, biệt về thu nhập và giai cấp. Những đặc trưng này làm nảy sinh câu chúng tôi cũng cho rằng tuy nhiều người có thể bất đồng về quan hỏi có nên xác định bình đẳng giới là bình đẳng về kết quả hay bình niệm công bằng, bình đẳng nhưng ai cũng sẽ nhất trí về việc phải đẳng về cơ hội. Các nghiên cứu kinh tế và triết học về vấn đề này có loại bỏ những gì được coi là “hoàn toàn bất công”. Nói cách khác, nhiều quan điểm khác nhau. tuy khó có thể xác định được bình đẳng giới là về kết quả hay cơ hội Những người bảo vệ quan điểm coi bình đẳng giới là bình đẳng nhưng hầu hết mọi người sẽ đồng ý rằng cần phải loại bỏ những về cơ hội cho rằng làm như vậy sẽ cho phép phân biệt giữa những bất hình thức bất bình đẳng giới nói chung. Nguôn: Booth và Nolen 2009; Croson và Gneezy 2009; Gneezy, Leonard và List 2009; Kabeer 1996; Sen 1999; Ngân hàng Thế giới 2011. Các HỘP 2  Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ công nhận giá trị nội tại và phương tiện của bình đẳng giới Hội nghị thượng đỉnh về Mục tiêu Phát triển Thiên bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ bản thân niên kỷ 2010 (MTPTTNK) kết thúc với việc thông qua nó đã là những mục tiêu phát triển cần đạt được chương trình hành động toàn cầu nhằm đạt được 8 (MTPTTNK 3 và 5), đồng thời đây cũng là những mục tiêu đến năm 2015. Hội nghị cũng thông qua kênh quan trọng để đạt được những MTPTTNK một nghị quyết kêu gọi hành động nhằm bảo đảm khác, giảm nghèo do thu nhập thấp và không có bình đẳng giới trong học hành, sức khỏe, cơ hội thu nhập. Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ kinh tế và quyền ra quyết định thông qua việc lồng góp phần thúc đẩy phổ cập giáo dục tiểu học ghép vấn đề giới vào quá trình xây dựng chính sách. (MTPTTNK 2), giảm tỉ lệ tử vong trẻ dưới 5 tuổi Các nghị quyết và chương trình hành động này thể (MTPTTNK 4), cải thiện sức khỏe bà mẹ (MTPTTNK 5) hiện niềm tin của cộng đồng phát triển quốc tế rằng và giảm tỉ lệ nhiễm HIV/AIDS (MTPTTNK 6). Nguồn: Nhóm lập BCPTTG 2012. năng suất giảm. Phân biệt đối xử trên thị trường so với những doanh nghiệp có nam giới đứng tín dụng và các loại hình bất bình đẳng giới đầu. Và một khi phụ nữ bị loại trừ khỏi những vị khác trong tiếp cận các đầu vào sản xuất cũng trí lãnh đạo, thì nếu tính bình quân, trình độ kỹ khiến những doanh nghiệp có lãnh đạo là nữ năng của ban lãnh đạo sẽ thấp hơn, từ đó giảm gặp nhiều khó khăn hơn về hiệu quả, lợi nhuận tốc độ cải tiến và áp dụng công nghệ.2 Tổng quan 5 Lợi ích trực tiếp từ việc sửa chữa những sai Quyền lợi, năng lực trung gian và cơ hội của lầm này, phần nhiều nằm ở việc thị trường và phụ nữ là những yếu tố định hình thế hệ kế cận các thể chế vận hành như thế nào, là rất lớn: bảo Tăng quyền kiểm soát của phụ nữ đối với các đảm để phụ nữ nông thôn có mức tiếp cận bằng nguồn lực của hộ gia đình sẽ dẫn tới tăng đầu tư với nam giới về phân bón và các nguyên liệu sản vào nguồn vốn con người cho trẻ em, đem lại tác xuất nông nghiệp khác sẽ tăng sản lượng ngô lên động tăng trưởng kinh tế hữu hiệu. Bằng chứng 11%-16% ở Malauy và 17% ở Gana.3 Cải thiện từ một loạt quốc gia (như Bănglađét, Braxin, Cốt quyền sở hữu tài sản của phụ nữ ở Buốckina d’Ivoa, Mêhicô, Nam Phi và Anh) cho thấy tăng tỉ Phaxô sẽ tăng tổng sản.3 lượng nông nghiệp của lệ thu nhập hộ gia đình thuộc tầm kiểm soát của hộ gia định lên khoảng 6%, dù không sử dụng phụ nữ thông qua thu nhập của chính họ hay trợ thêm nguồn lực bổ sung nào mà chỉ đơn giản là cấp tiền sẽ thay đổi mô hình chi tiêu một cách tái phân bổ nguồn lực đã có (phân bón, lao động) có lợi cho trẻ em.10 Ở Gana, tỉ lệ tài sản và đất giữa nam và nữ.4 Tổ chức Nông Lương (FAO) đai thuộc sở hữu của phụ nữ có liên hệ mật thiết ước tính rằng nhờ bình đẳng hóa mức tiếp cận với mức chi tiêu cho lương thực tăng.11 Ở Braxin, với các nguồn lực sản xuất giữa nam giới và nữ thu nhập riêng không từ lao động của phụ nữ có giới nông thôn sẽ tăng sản lượng nông nghiệp ở tác động tích cực đến chiều cao của con gái.12 Ở các nước đang phát triển lên tới 2,5%-4%.5 Xóa Trung Quốc, thu nhập của phụ nữ trưởng thành bỏ những rào cản khiến phụ nữ không thể tham tăng 10% trong thu nhập bình quân hộ gia đình gia một số ngành nghề nhất định cũng sẽ đem làm tăng tỉ lệ sinh tồn của trẻ em gái được 1% lại kết quả tương tự, giảm cách biệt về năng suất cũng như tăng số năm đi học của cả trẻ em trai giữa nam và nữ công nhân tới 1/3-1/2 (Chương và trẻ em gái. Trái lại, tăng thu nhập tương ứng 5) và tăng năng suất lên 3%-25% ở một loạt các ở nam giới lại khiến tỉ lệ sinh tồn và thời gian đi quốc gia.6 Tuy nhiên, những kết quả này không học của trẻ em gái giảm, dù không ảnh hưởng đến tự nhiên mà có khi các nước trở nên giàu hơn: vì trẻ em trai.13 Ở Ấn Độ, thu nhập của phụ nữ tăng những rào cản đa chiều và đôi khi là áp đặt lại đối cũng làm tăng số năm học hành của con cái.14 với bình đẳng giới sẽ tiếp tục xuất hiện. Những cải thiện về học hành và sức khỏe của Sự cải thiện về năng suất trên sẽ thậm chí còn phụ nữ cũng có tác động tích cực đến những lớn hơn khi thế giới trở nên hội nhập hơn, trong yếu tố này và các kết quả khác ở trẻ. Tình trạng đó hiệu quả sử dụng nguồn lực sẽ đóng vai trò dinh dưỡng bà mẹ tốt hơn có liên hệ với sức thiết yếu đối với năng lực cạnh tranh và tăng khỏe và khả năng sinh tồn tăng của trẻ.15 Học trưởng của một quốc gia. Thực tế, những nghiên vấn của phụ nữ có liên hệ mật thiết với một loạt cứu gần đây cho thấy bất bình đẳng giới đã khiến lợi ích về sức khỏe của trẻ, từ tỉ lệ tiêm chủng phần lớn các nước phải trả giá nhiều hơn khi tăng đến cải thiện dinh dưỡng, tỉ lệ tử vong trẻ thương mại trên thế giới mở cửa hơn.7 Bất bình giảm. Học vấn của mẹ (và cả bố) có liên hệ rõ đẳng giới làm suy yếu khả năng cạnh tranh quốc tế của quốc gia, nhất là khi quốc gia đó chuyên ràng với số năm đi học của con cái ở một loạt xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ mà việc sử dụng cả các nước: ở Pakitxtan, trẻ có mẹ chỉ đi học một nam và nữ nhân công đều phù hợp. Những nền năm tự học ở nhà nhiều hơn một giờ mỗi ngày công nghiệp phụ thuộc nhiều hơn vào lao động và có kết quả điểm kiểm tra cao hơn.16 Việc nữ sẽ mở rộng hơn ở những nước mà phụ nữ phụ nữ thiếu năng lực trung gian, như đã thấy được bình đẳng hơn.8 Mối liên hệ này cũng đúng trong vấn đề bạo lực gia đình, có hậu quả đối với cả ở chiều ngược lại: những nước có lợi thế sản hành vi nhận thức của trẻ khi còn nhỏ và sức xuất hàng hóa phụ thuộc nhiều vào lao động nữ khỏe của trẻ khi trưởng thành. Các nghiên cứu cũng sẽ trở nên bình đẳng giới hơn.9 Ở những y khoa ở một số nước phát triển đã phát hiện nước và khu vực có dân số già hóa nhanh như thấy sự liên hệ giữa việc chứng kiến bạo lực gia Trung Quốc, Châu Âu và Trung Á, khuyến khích đình khi còn nhỏ và các vấn đề về sức khỏe khi phụ nữ tham gia và ở lại trong lực lượng lao động trưởng thành – những nam giới và phụ nữ từng sẽ giúp giảm tác hại của tình trạng dân số trong trải qua bạo lực gia đình khi còn nhỏ dễ mắc độ tuổi lao động suy giảm. Vì vậy, trong thế giới ung thư, đột quỵ hay bệnh tim mạch cao hơn toàn cầu hóa, các quốc gia giảm được bất bình gấp 2-3 lần, có tỉ lệ sử dụng đồ uống có cồn hay đẳng giới, nhất là trong giáo dục trung học và đại ma túy cao hơn gấp 5-10 lần so với những người học cũng như tham gia vào hoạt động kinh tế, sẽ không trải qua tình trạng trên.17 Nhiều nghiên có lợi thế rõ ràng so với những nước chậm hành cứu cũng cho thấy việc từng chứng kiến cảnh động (Chương 6). bạo lực giữa cha mẹ khi còn nhỏ là một yếu tố 6 B Á O C Á O P HÁT T R I Ể N T H Ế G I Ớ I 2 0 1 2 nguy cơ khiến phụ nữ phải chịu nạn bạo hành vào hoạt động kinh tế được kết hợp với sự hiện từ chồng, bạn trai khi trưởng thành, cũng như diện gia tăng của phụ nữ trong các vị trí lãnh đạo nam giới có hành vi bạo lực đối với vợ, bạn gái.18 chính trị, nhằm uốn nắn những quan điểm xã hội về tạo sự cân bằng trong công việc và đời sống Tăng năng lực trung gian cá nhân và tổng gia đình nói chung, cũng như để thông qua nhiều thể của phụ nữ đem lại những kết quả, thể đạo luật về lao động có lợi cho gia đình hơn. chế và lựa chọn chính sách tốt hơn Ngược lại, khi phụ nữ và nam giới không có Năng lực trung gian là khả năng thực hiện lựa cơ hội bình đẳng để có thể tác động một cách tích chọn của con người, cũng như chuyển hóa cực về mặt xã hội và chính trị đối với luật pháp, những lựa chọn đó thành hành động, kết quả chính trị, quá trình hoạch định chính sách, thể chế mong muốn. Giữa các nước và các nền văn hóa và chính sách thì sẽ thường xuyên dẫn đến tình có những sự khác biệt giữa khả năng của nam trạng thiên vị lợi ích của những tầng lớp có nhiều giới và phụ nữ trong việc thực hiện những lựa ảnh hưởng hơn. Những hạn chế về mặt thể chế chọn này, và thường phần bất lợi thuộc về phụ và khiếm khuyết của thị trường gây bất bình đẳng nữ. Những khác biệt về giới này không những có giới sẽ ít được giải quyết, sửa chữa hơn, dẫn tới sự ảnh hưởng đến quyền lợi của phụ nữ mà còn cả tồn tại bất bình đẳng dai dẳng. Như đã nêu trong một loạt những hệ quả khác đối với gia đình và Báo cáo Phát triển Thế giới 2006: Bình đẳng và Phát xã hội nói chung. Năng lực trung gian của phụ triển, “bẫy bất bình đẳng” chính vì vậy sẽ có thể nữ ảnh hưởng đến khả năng hình thành nguồn xuất hiện, ngăn cản nhiều thế hệ phụ nữ không vốn con người và nắm bắt cơ hội kinh tế của họ. được học hành và có được những cơ hội kinh tế Ở Bănglađét, những phụ nữ có khả năng kiểm ngang bằng với nam giới, từ đó giảm khả năng để soát cao hơn về các chi tiêu cho y tế và sinh hoạt phụ nữ thực hiện những lựa chọn có cơ sở cũng cũng có tình trạng dinh dưỡng tốt hơn. Năng lực như phát huy đầy đủ khả năng của cá nhân.23 trung gian của phụ nữ cũng có ảnh hưởng đến mức phúc lợi của con cái. Ở Mêhicô, con gái (chứ không phải con trai) của những phụ nữ có nhiều MỤC ĐÍCH CỦA BÁO CÁO? quyền kiểm soát hơn trong các quyết định của hộ gia đình có thời gian làm việc nhà ít hơn. Báo cáo tập trung vào tính kinh tế của vấn đề bình Năng lực trung gian tổng thể của phụ nữ nói đẳng giới và phát triển. Báo cáo sử dụng lý thuyết chung có thể là một yếu tố tạo chuyển biến cho xã kinh tế để hiểu và xác định sự khác biệt trong hội. Yếu tố này có thể định hình các thể chế, thị những lĩnh vực phúc lợi chính giữa nam và nữ - trường, chuẩn mực xã hội đang hạn chế năng lực học hành, sức khỏe, tiếp cận các cơ hội kinh tế và trung gian và cơ hội của cá nhân. Trao quyền cho nguồn lực sản xuất, khả năng thực hiện lựa chọn phụ nữ với tư cách là những tác nhân chính trị và hiệu quả và hành động. Báo cáo cũng thông qua xã hội làm thay đổi sự lựa chọn và khiến các thể lăng kính kinh tế để tìm hiểu xem có thể sử dụng chế mang tính đại diện rộng khắp hơn. Quyền những can thiệp chính sách và giải pháp xã hội bầu phiếu của phụ nữ ở Mỹ khiến các nhà hoạch nói chung nào để giảm thiểu những khác biệt về định chính sách chú ý hơn tới trẻ em và sức khỏe giới này và cải thiện các mục tiêu phát triển nói bà mẹ, nhờ đó giảm tỉ lệ tử vong sơ sinh được chung. Báo cáo không chỉ giới hạn ở các kết quả 8%-15%.19 Ở Ấn Độ, nhờ trao quyền cho phụ nữ kinh tế mà cũng giành sự quan tâm tương ứng ở cơ sở (thông qua chế độ chỉ tiêu chính trị) mà đến các quyền con người, cơ hội kinh tế, năng lực tăng cung ứng các hàng hóa công cộng (cả những trung gian của phụ nữ, qua đó làm nổi bật tầm hàng hóa được nữ giới ưa chuộng như nước, vệ quan trọng của tất cả ba thành phần của phúc lợi sinh, và hàng hóa được nam giới ưa chuộng như con người có liên hệ lẫn nhau này. Báo cáo cũng thủy lợi, trường học), và giảm tham nhũng.20 không bỏ qua vai trò trung tâm của các thể chế Nạn đưa hối lộ của phụ nữ và nam giới ở những xã hội, chính trị, cả chính thức và phi chính thức, thôn bản có lãnh đạo là nữ thấp hơn 2,7-3,2 điểm trong việc xác định các kết quả về giới. Nhưng phần trăm so với những làng có nam giới lãnh trong giới hạn nội dung và phạm vi dẫn chứng đạo.21 Ở Ấn Độ và Nêpan, nhờ trao cho phụ nữ đưa ra về bình đẳng giới, báo cáo sẽ tập trung chủ vai trò lớn hơn trong quản lý rừng mà cải thiện yếu vào các nghiên cứu kinh tế về giới. đáng kể được các kết quả về bảo vệ rừng.22 Vai Chúng tôi chọn phương pháp này vì 4 lý do. trò xã hội của phụ nữ tăng không chỉ đem lại lợi Thứ nhất, phương pháp này cho phép nghiên cứu ích cho phụ nữ và trẻ em mà còn cả nam giới. Ở sâu về quá trình đạt và nâng cao các kết quả chính nhiều nước giàu, việc phụ nữ tham gia nhiều hơn về giới trong tiến trình phát triển, cũng như mức Tổng quan 7 độ ảnh hưởng từ vai trò và hiệu quả của chính trị đến những kết quả đó. Thứ hai, phương pháp này Phụ HỘP 3  nữ và nam giới định nghĩa giới trong thế kỷ 21 như là sự kế thừa truyền thống của các ấn phẩm của thế nào Ngân hàng Thế giới về giới (đáng kể nhất là báo Để lấy tư liệu cho Báo cáo, Ngân hàng Thế giới thực hiện một nghiên cứu cáo Tạo sự phát triển24) cũng như những lĩnh vực thực địa mới ở 19 nước thuộc tất cả các khu vực nhằm có cái nhìn trực diện về mà Ngân hàng Thế giới có nhiều kiến thức, kinh trải nghiệm về vấn đề giới của nam giới và phụ nữ trong đời sống thường nhật. nghiệm nhất. Thứ ba, trong lĩnh vực này còn khá Phụ nữ và nam giới thuộc mọi độ tuổi, nhóm thu nhập, địa phương coi việc nhiều những khiếm khuyết về số liệu và kiến thức học hành, quyền sở hữu tài sản, tiếp cận cơ hội kinh tế và cơ hội tạo thu nhập là mà chúng tôi có thể góp phần bổ sung. Thứ tư, những yếu tố chính để cải thiện cuộc sống của mình và gia đình. Qua 500 cuộc mặc dù báo cáo cũng đưa ra những ý kiến chẩn thảo luận nhóm, các nghiên cứu viên đã xác định vai trò, trách nhiệm của nam đoán tương tự như những phương pháp khác giới và phụ nữ ở cả khu vực công và tư – trong đó vai trò của phụ nữ chủ yếu liên quan đến chăm sóc gia đình và làm việc ở nhà, còn nam giới có vai trò tạo thu nhưng báo cáo cũng có những cách nhìn khác về nhập và ra quyết định. Nhưng sự khác biệt giữa các thế hệ cho thấy rõ rằng các đòn bảy chính sách có thể được sử dụng để hỗ những vai trò trên đang được tái xác định trong một thế giới đã có những cơ trợ bình đẳng giới. hội và đòi hỏi mới cho cả nam giới lẫn nữ giới. Báo cáo chủ yếu tập trung vào vấn đề bất bình Kết quả cũng cho thấy những vấn đề cũ vẫn còn tồn tại trong tình hình mới, đẳng ảnh hưởng đến phụ nữ, nhất là những vấn trong khi những khó khăn mới vẫn tiếp tục nảy sinh. Nhiều nhóm đối tượng đề có nhiều khả năng sẽ lặp lại và kéo dài sang đang chịu nhiều thiệt thòi – đối với họ, sự thay đổi vẫn chỉ là niềm mong mỏi cho thế hệ sau. Mặt khác, báo cáo cũng tập trung vào các thế hệ tương lai chứ không phải một thực tế trong cuộc sống thường nhật. cả những vấn đề bất bình đẳng ở nam giới, đồng Nguồn: Ngân hàng Thế giới 2011. thời ghi nhận rằng hầu hết những bất bình đẳng ở Chú thích: Nghiên cứu được thực hiện với các đối tượng nam và nữ ở các độ tuổi khác nhau từ 98 cộng đồng nam giới này ít có ảnh hưởng đến lĩnh vực phúc (khoảng 4000 cá nhân) ở các khu vực Mỹ Latinh (CH Đôminich và Pêru), Châu Âu và Trung Á (Mônđôva, Ba lợi hơn. Lan, Sécbi), Châu Phi (Buốckina Phaxô, Libểria, Xuđăng, Nam Phi, Tandania), Nam Á (Apganitxtan, Butan, Ấn Độ), Trung Đông (Bờ Tây và dải Gaza, CH Yêmen), Đông Á (Inđônêxia,Việt nam), và các quần đảo ở Thái Bình Chúng tôi áp dụng phương thức dựa trên Dương (Fiji và Papua Tân Ghinê). kinh nghiệm, chú trọng phân tích chặt chẽ và dựa trên bằng chứng, cũng như nêu bật các mối nước, hay bao quát được hết mọi lĩnh vực liên quan hệ nhân quả nếu có thể. Để làm được điều quan về bình đẳng giới. Nhưng thay vào đó, báo này, chúng tôi sử dụng một loạt các nghiên cứu cáo đề xuất một khung khái niệm chung nhằm định lượng về giới, kèm theo các phân tích mới, giải thích vấn đề bất bình đẳng giới và đề xuất đặc biệt là về phân bổ thời gian, bạo lực gia đình, những hành động xã hội chung có thể áp dụng nguy cơ tử vong, cũng như đóng góp trong nông phù hợp với điều kiện từng nước, cho từng vấn nghiệp và kinh doanh. Chúng tôi cũng sử dụng đề và từng lĩnh vực cụ thể. Báo cáo cũng trình một số nghiên cứu định tính thực địa với hơn bày công dụng của khung khái niệm này thông 4.000 nam giới và phụ nữ thuộc 98 cộng đồng từ qua việc chú trọng vào những lĩnh vực bình đẳng 19 nước đang phát triển, để tìm hiểu xem vấn đề giới đã đạt được nhiều tiến bộ nhất trên thế giới giới ảnh hưởng như thế nào đến sinh hoạt hàng (giáo dục, tỉ lệ sinh, tuổi thọ trung bình, tỉ lệ ngày cũng như các ước vọng, điều kiện học hành, tham gia lực lượng lao động, tăng cường quyền lựa chọn nghề nghiệp, khả năng ra quyết định và hợp pháp), cũng như những lĩnh vực còn ít hay các lĩnh vực quyền lợi khác (Hộp 3).25 chậm chuyển biến (tỉ lệ tử vong phụ nữ cao, phân Báo cáo toàn cầu thuộc loại này không thể đi biệt trong các hoạt động kinh tế, khoảng cách thu vào phân tích sâu về tình hình cụ thể của từng nhập, trách nhiệm đối với công việc nhà cửa, nội “ Tôi cho rằng phụ nữ phải được học hành và làm việc để tự khẳng định mình Một phụ nữ trẻ ở TP Rafah, Bờ Tây và dải Gaza Phụ nữ cần đi làm. Vì sao tôi phải ở nhà trong khi tôi có thể ra ngoài làm việc? Tôi cũng phải có thu nhập để những người thân và bản thân tôi có thể được hưởng đồng tiền tôi làm ra. Thời mà mẹ chúng tôi phải hỏi xin tiền từ cha chúng tôi, hay kể cả những thứ nhỏ nhặt như đồ lót đã qua rồi: chúng tôi cần có đồng tiền riêng của mình và điều đó có ” nghĩa là chúng tôi phải đi làm. Một phụ nữ trẻ ở tỉnh Bukoba, Tanzania 8 B Á O C Á O P HÁT T R I Ể N T H Ế G I Ớ I 2 0 1 2 Họ thực hiện những lựa chọn này dựa trên các hộp 4  Những khái niệm thị trường, thể chế chính thức, thể ưu tiên, động cơ, hạn chế của các thành viên gia chế xã hội phi chính thức nghĩa là gì? đình, cũng như mối liên hệ với tiếng nói và khả năng thương lượng tương ứng của từng người. Thị trường – là một loạt những điều kiện cho phép người mua và người bán Các ưu tiên được hình thành bởi chức năng giới, trao đổi (quyền đối với) bất kỳ một loại hàng hóa, dịch vụ nào theo một số luật các chuẩn mực xã hội và các mạng xã hội (xếp lệ nhất định. Thị trường cho phép định giá bất kỳ vật phẩm nào được trao đổi. chung vào nhóm thể chế phi chính thức). Động Thị trường có thể chịu ảnh hưởng và được hình thành bởi các thể chế chính thức cơ chủ yếu chịu ảnh hưởng của thị trường (như hay phi chính thức. thị trường lao động, tín dụng, đất đai, hàng hóa) Thể chế chính thức – mọi lĩnh vực liên quan đến hoạt động của nhà nước, như xác định mức lợi suất từ các quyết định và đầu tư luật pháp, khung thể chế, các cơ chế thực hiện các chức năng của nhà nước (như của gia đình. Các hạn chế phát sinh từ ảnh hưởng tòa án, cảnh sát, xây dựng cơ sở hạ tầng cơ bản, y tế, giáo dục). lẫn nhau của các thể chế phi chính thức (bao Thể chế xã hội phi chính thức – các cơ chế, luật lệ, quy trình hình thành nên các gồm mọi yếu tố liên quan đến chức năng của nhà giao tiếp xã hội nhưng không liên quan đến chức năng của nhà nước. Trong báo nước) và thị trường, nhưng cũng thể hiện sự ảnh cáo này, nội dung trọng tâm là về chức năng giới, niềm tin, chuẩn mực xã hội, hưởng của các thể chế phi chính thức. mạng lưới xã hội. Các chức năng giới định hướng cho hành vi chuẩn mực cho mỗi giới trong bối cảnh xã hội nhất định. Vai trò đem lại quyền lực vì được tiếp thu Tôi cho rằng phụ nữ phải ra ngoài giao tiếp thông qua giao tiếp xã hội, được thể hiện trong các sản phẩm văn hóa và được thực thi trong cuộc sống hàng ngày. Kinh nghiệm thường xuyên qua việc thực cũng như tìm việc làm vì nam giới đang gặp khó hiện các chức năng giới có ảnh hưởng rộng khắp đến niềm tin về đặc trưng của khăn trong tìm kiếm việc làm; phụ nữ có lợi thế nam giới và nữ giới cũng như nhận thức của mỗi người về danh tính. Các chuẩn hơn vì họ có nhiều lựa chọn hơn (Hộp 4). Tiếng mực xã hội là những mô thức hành vi xuất phát từ những niềm tin chung trong xã nói và khả năng thương lượng của các thành viên hội và được thực thi bởi các quy tắc xã hội phi chính thức. Những chuẩn mực này gia đình được xác định bởi một loạt các yếu tố, ảnh hưởng đến vị thế của hộ gia đình theo nhiều cách: chúng đề ra những hạn như quyền sở hữu và kiểm soát nguồn lực, khả mức về những gì có thể đòi hỏi; chúng có thể là yếu tố quyết định hay hạn chế khả năng tách riêng khỏi gia đình (khả năng tự lập) năng thương lượng; chúng có ảnh hưởng đến quá trình thương lượng; bản thân chúng cũng phụ thuộc vào quá trình thương lượng và có thể thay đổi. Các mạng và các chuẩn mực xã hội. Theo đó, việc ra quyết xã hội là hệ thống các quan hệ xã hội và những ràng buộc hợp tác vì lợi ích chung định trong gia đình, thị trường, các thể chế chính hình thành nên các cơ hội, thông tin, chuẩn mực xã hội và nhận thức. thức và thể chế phi chính thức kết hợp và tương tác với nhau để xác định các kết quả về giới Nguồn: Agarwal 1994, 1997; Fehr, Fischbacher, và Gätcher 2002; Kabeer 1999; Sen 1990. (Hình 1). Lợi ích từ sự phát triển kinh tế (sự kết hợp trợ, quyền sở hữu tài sản, năng lực trung gian của của thu nhập tăng và các thể chế cung cấp dịch phụ nữ trong khu vực tư và công). vụ tốt hơn) đối với các mục tiêu về giới có thể Kế thừa các công trình nghiên cứu trước kia thấy rõ thông qua mô hình chung này từ sự vận và gần đây về giới và các chương trình của riêng hành của hộ gia đình, thị trường, các thể chế và Ngân hàng Thế giới26 và nhiều nơi khác, Báo cáo sự tác động qua lại giữa các yếu tố trên. Các tác khẳng định rằng có thể tìm hiểu các mục tiêu về động được biểu diễn trong Hình 1 bởi mũi tên giới thông qua câu trả lời của hộ gia đình về chức “tăng trưởng” chuyển động theo hướng nâng cao năng và cơ cấu của thị trường và các thể chế, cả bình đẳng giới. Đồng thời, tác động của việc tăng chính thức và phi chính thức. Các gia đình quyết cường bình đẳng giới đối với tăng trưởng được định sẽ có bao nhiêu con và khi nào, chi tiêu bao biểu diễn bằng mũi tên “bình đẳng giới” chuyển nhiêu cho việc học hành và sức khỏe của con trai động theo hướng tăng trưởng cao hơn. và con gái, bố trí công việc ra sao (cả trong và ngoài gia đình), cũng như các vấn đề khác có ảnh hưởng đến các mục tiêu về giới. NƠI NÀO ĐẠT ĐƯỢC NHIỀU TIẾN BỘ NHẤT VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI? “ Tôi cho rằng phụ nữ phải ra ngoài giao tiếp cũng như tìm việc làm vì nam giới đang gặp khó khăn trong tìm kiếm việc làm; phụ nữ có lợi thế hơn vì Đối với phụ nữ và trẻ em gái ở các nước đang phát triển, nhiều tiến bộ mới đã đạt được trong ¼ thế kỷ qua. Ví dụ như tuổi thọ trung bình khi ” họ có nhiều lựa chọn hơn. sinh của nữ giới. Chỉ số này đã tăng mạnh ở các nước đang phát triển (tới 20-25 năm ở hầu hết Nam thanh niên ở vùng nông thôn Ngonyameni, Nam Phi các khu vực trong vòng 50 năm qua) lên tới 71 tuổi tính trên toàn cầu vào năm 2007 (so với 67 Tổng quan 9 HÌNH 1 Các kết quả về giới đạt được nhờ sự tác động qua lại giữa hộ gia đình, thị trường và các thể chế các BÌNH ĐẲNG GIỚI c sác hính h Ế PHI HỂ CH C CÁC T T H Ứ CHÍNH CÁC CƠ HỘI KINH TẾ ỜNG CÁC HỘ GIA ĐÌNH TRƯ THỊ ÐẠI LÝ TRAO QUYỀN CÁC THỂ CHẾ CHÍ NH THỨ C TĂNG TRƯỞ NG Nguồn: Nhóm BCPTTG 2012. tuổi ở nam giới), và hiện nay ở khắp nơi trên thế giới, phụ nữ đều có tuổi thọ cao hơn nam giới. h Ì N H 2 Phụ nữ trên khắp thế giới Những thay đổi này còn diễn ra nhanh hơn ngày càng đẻ ít con hơn nhiều so với khi những nước giàu hiện nay còn Tỷ lệ sinh đẻ sẽ giảm nhanh đến mức nào? nghèo. Số con sinh ra của một phụ nữ ở Mỹ phải mất tới 100 năm mới giảm từ 6 xuống còn 3 con; CHHG Iran ở Ấn Độ phải mất hơn 35 năm để đạt mức giảm Bănglađét tương tự; ở Iran là dưới 20 năm (Hình 2). Trong Marốc giáo dục tiểu học, mô hình cũng tương tự. Mỹ phải mất 40 năm (từ 1870 đến 1910) để nâng số Dimbabuê lượng trẻ em gái từ 6 đến 12 tuổi đi học từ 57% Côlômbia lên 88%; trong khi Marốc chỉ mất hơn 10 năm để đạt mức tăng tương ứng đối với độ tuổi này (từ Ấn Độ 58% năm 1997 lên 88% năm 2008). Mỹ 0 20 40 60 80 100 Học vấn của trẻ em gái số năm để tổng mức sinh giảm từ hơn 6 con xuống dưới 3 con Những tiến bộ đạt được trong việc thu hẹp khoảng cách về giới trong giáo dục khá ổn định và được duy trì ở mọi cấp học – tiểu học, trung học, đại học. Ở nhiều nước, đặc biệt trong giáo Nguồn:www.gapminder.org dục đại học, những khoảng cách về giới này hiện 10 B Á O C Á O P HÁT T R I Ể N T H Ế G I Ớ I 2 0 1 2  ình đẳng giới trong tỉ lệ đi học ở các cấp học dưới đã đạt được ở nhiều nơi trên thế giới nhưng hÌNH 3 B tỉ lệ học đại học vẫn rất thấp và thiên về phụ nữ Tiểu học Trung học Đại học 100 100 100 Nam chịu Một số nước BBĐ về tỷ lệ đi học thiệt thòi Châu Phi đang đi sau thu hẹp BBĐ giới 80 80 80 tỷ lệ nữ đi học thuần, % tỷ lệ nữ đi học thuần, % tỷ lệ nữ đi học thuần, % 60 60 60 40 40 40 Nữ tham gia nhiều hơn 20 20 20 nam nữ nữ chịu thiệt thòi chịu thiệt thòi 0 0 0 0 20 40 60 80 100 0 20 40 60 80 100 0 20 40 60 80 100 tỷ lệ nam đi học, thuần, % tỷ lệ nam đi học, thuần % tỷ lệ nam đi học, thuần % Đông Á - TBD Châu Âu và Trung Á Mỹ Latinh và Caribê Trung Đông và Bắc Phi Nam Á Hạ Xahara Châu Phi Nước thu nhập cao Nguồn: Nhóm BCPTTG 2012 tính toán dựa trên Chỉ số Phát triển Thế giới. Chú thích: Đường 45° trong từng đồ thị chỉ mức bình đẳng giới trong tỉ lệ đi học. Mọi điểm nằm trên đường 45° có nghĩa là nhiều nữ đi học hơn nam nay đang có chiều hướng ngược lại khi trẻ em trai tỉ lệ tham gia ở những nước có xuất phát điểm và nam thanh niên ở vào thế bất lợi tương đối. rất thấp (chủ yếu ở khu vực Mỹ Latinh và Caribê, Hai phần ba các quốc gia đã đạt bình đẳng giới cũng như một phần ở khu vực Trung Đông và về số lượng học sinh tiểu học, và ở một phần ba Bắc Phi), cùng với mức giảm thấp ở những nước số quốc gia, số lượng trẻ em gái đi học trung học có xuất phát điểm rất cao (chủ yếu ở Đông Âu và đã cao hơn đáng kể so với trẻ em trai (Hình 3). Trung Á) đồng nghĩa với việc các tỉ lệ trên đã có Ngay cả ở những khu vực còn tồn tại tình trạng sự giao thoa giữa các khu vực, tuy vẫn còn những bất bình đẳng giới trầm trọng nhất, như Nam chênh lệch đáng kể. Tỉ lệ tham gia của lao động Phi và khu vực Hạ Xahara Châu Phi (nhất là Tây nữ ở Trung Đông và Bắc Phi là thấp nhất (26%), Phi) cũng đã có những tiến bộ đáng kể. Và trong Nam Phi (35%) và cao nhất là ở Đông Á và Thái xu thế đảo ngược đáng chú ý trong lịch sử, ngày Bình Dương (64%), cũng như khu vực Hạ Xa- nay số lượng phụ nữ đi học đại học đã nhiều hơn hara Châu Phi (61%). nam giới, trong đó số lượng nữ học đại học trên toàn thế giới đã tăng hơn 7 lần tính từ năm 1970 Lý do nào đem lại sự tiến bộ? (nam giới tăng 4 lần). Tuy vậy, mặc dù bất bình Ở những nơi bất bình đẳng giới giảm nhanh thì đẳng đối với trẻ em trai có xuất hiện với tốc độ đó là kết quả của quá trình vận hành và phát chậm ở một số nơi, bất bình đẳng ở trẻ em gái triển của thị trường và các thể chế, của quá trình nếu có thường xuất hiện sớm trong cuộc đời và tăng trưởng, cũng như của sự tương tác giữa tất thường có mức độ sâu sắc hơn. cả những yếu tố này thông qua các quyết định của hộ gia đình. Về giáo dục, ta hãy xem xét lần Thị trường lao động nữ lượt từng yếu tố. Thu nhập tăng cho phép các Sự tham gia của nữ giới vào lực lượng lao động gia đình trước đây chỉ có thể cho con trai đi học đã tăng trong vòng 30 năm qua nhờ có nhiều cơ giờ đây đã có thể cho cả con gái đi học. Khi các hội kinh tế hơn, thu hút nhiều lao động nữ tham quốc gia giàu lên, cơ cấu kinh tế cũng thay đổi, gia thị trường. Từ năm 1980 đến 2008, khoảng khiến những lĩnh vực hoạt động trong đó nam Primary Ed cách về giớiSecondary Ed trong tỉ lệ tham hẹp từ 32 Edgiới không còn có lợi thế như trước ngày càng gia đã thu Tertiary điểm % xuống còn 26 điểm phần trăm. Tính đến nhiều hơn. Sự thay đổi này mở ra những cơ hội năm 2008, phụ nữ đã chiếm hơn 40% lực lượng mới về việc làm cho phụ nữ và các hộ gia đình lao động trên toàn cầu. Những mức tăng cao về phản ứng với những tín hiệu này bằng cách cho Tổng quan 11 HÌNH 4 Sử dụng khung khái niệm để lý giải tiến bộ đạt được về giáo dục các BÌNH ĐẲNG GIỚI c sác hính h Ế PHI HỂ CH C CÁC T T H Ứ CHÍNH CÁC CƠ HỘI KINH TẾ ỜNG TRƯ n từ CÁC HỘ GIA ĐÌNH THỊ i nhuậ g lợ u tư Thu nhập ổn Tăn việc đầ định hơn ÐẠI LÝ TRAO QUYỀN CÁC THỂ Chi CHẾ p CH và g hí cơ h ÍNH TH ián ội tr ỨC tiếp ự thấp c tiếp hơn TĂNG TRƯỞ NG Nguồn: Nhóm BCPTTG 2012. con gái đi học. Các nước giàu cũng đầu tư nhiều 4 bằng các đường (màu xanh) biểu diễn hộ gia hơn vào các hệ thống giáo dục phổ cập bằng cách đình, các thể chế chính thức và thị trường tất xây dựng thêm trường học, tuyển dụng thêm cả đều chuyển dịch theo hướng thu hẹp khoảng giáo viên. Khi kết hợp với các sáng kiến và cơ chế cách về giới trong giáo dục (“được bôi trơn” bởi xác định trách nhiệm tốt hơn, những yếu tố đầu các chính sách hỗ trợ). vào này sẽ góp phần đem lại những dịch vụ chất Sự tác động qua lại giữa các hộ gia đình, thị lượng hơn và rẻ hơn, nhờ đó giảm chi phí tiếp trường và các thể chế cũng giải thích mô hình và cận cho hộ gia đình và tăng mức sử dụng. Ở nơi tốc độ gia nhập lực lượng lao động của phụ nữ. nào tất cả những yếu tố này kết hợp với nhau thì Phụ nữ quyết định ra ngoài làm việc để thích ứng khoảng cách về giới sẽ thu hẹp rất nhanh, như ở với cả những thay đổi về tiền lương của mình Marốc. cũng như những thay đổi trong thu nhập hộ gia Nhưng ngay cả nếu có vướng mắc nào ở bất đình. Khi các nước thu nhập thấp giàu lên, phụ kỳ một kênh nào – như tư tưởng trọng nam trong nữ sẽ tham gia ít hơn vào thị trường lao động vì gia đình hay nhu cầu học hành không được đáp thu nhập hộ gia đình của họ đã tăng. Dần dần, ứng đủ, hoặc có sự tăng trưởng chậm hay hạn trình độ học vấn của phụ nữ cũng tăng nhờ sự chế về cơ hội việc làm của phụ nữ - thì những đáp ứng của các thể chế chính thức. Thu nhập kênh khác vẫn tạo ra sự tiến bộ về học vấn của trẻ tăng cũng dẫn tới việc lấy chồng, đẻ con muộn em gái. Các chính sách có mục tiêu khuyến khích hơn và tỉ lệ sinh đẻ thấp hơn. Tất cả những yếu trẻ đi học, như trợ cấp tiền có điều kiện được áp tố này đều tác động đưa phụ nữ quay trở lại lực dụng ở hơn 30 nước trên thế giới (nhiều chính lượng lao động. Ở 10 nước Mỹ La tinh có tới gần sách có đối tượng cụ thể là nữ, như ở Bănglađét 2/3 mức tăng trong số phụ nữ tham gia lực lượng và Campuchia) cũng góp phần tạo sự tiến bộ. lao động trong 20 năm qua là do phụ nữ được Những động lực này được minh họa trong Hình học hành nhiều hơn cũng như những thay đổi 12 B Á O C Á O P HÁT T R I Ể N T H Ế G I Ớ I 2 0 1 2 tiếng nói cũng có trọng lượng hơn trong gia đình HÌNH 5  Mức tham gia lực lượng lao động tăng dần ở tất cả các – từ đó càng thúc đẩy thêm chu trình thay đổi. mức thu nhập Như vậy, những tiến bộ về tỉ lệ sinh, trình độ giáo dục tăng, năng lực trung gian của phụ nữ tăng và sự chuyển dịch của phụ nữ sang thị trường tỷ lệ nữ tham gia lực lượng lao động, % 80 lao động không chỉ có liên hệ mà còn góp phần củng cố lẫn nhau. Bản thân các chính sách của 70 2008 nhà nước cũng có một vai trò nhất định vì trào lưu phổ cập giáo dục mạnh mẽ trong thập kỷ qua 60 cũng góp phần để mọi trẻ em được tới trường. Bài học kinh nghiệm chính: khi các tín hiệu thị trường, các thể chế chính thức và tăng trưởng 50 thu nhập cùng kết hợp lại hỗ trợ đầu tư vào phụ 1980 nữ thì bình đẳng giới có thể và sẽ được cải thiện 40 rất nhanh chóng. Những cải thiện này sẽ diễn ra 4 6 8 10 12 ngay cả khi các thể chế phi chính thức, như các lôgarít, GDP đầu người (không đổi 2000 đô la Mỹ) chuẩn mực xã hội quy định điều gì là “không phù hợp” đối với trẻ em gái, trẻ em trai, phụ nữ hay nam giới, cũng dần thay đổi để thích ứng. Nói Nguồn: Nhóm BCPTTG 2012 tính toán dựa trên số liệu của Tổ chức Lao động Quốc tế 2010 (130 nước). như vậy không có nghĩa là các chuẩn mực xã hội không có ý nghĩa gì trong việc xác định những trong việc lập gia đình (kết hôn muộn hơn, tỉ kết quả trên. Sự khác biệt giữa các nước và các lệ sinh đẻ thấp hơn).27 Những tác động này đối vùng trong một nước, cả về thu hẹp khoảng cách với tăng trưởng thu nhập và mức lương của phụ về giới trong giáo dục và mức độ tham gia của nữ tăng dẫn tới xu hướng hình chữ U trong tỉ lệ phụ nữ vào lực lượng lao động cho thấy rõ tầm tham gia lực lượng lao động của phụ nữ ở các ảnh hưởng của các chuẩn mực xã hội. Nhưng tốc quốc gia (Hình 5). Nhưng đặc biệt kể từ năm độ thay đổi nhanh về giáo dục và thậm chí cả về tỉ 1980, tỉ lệ nữ tham gia theo từng mức thu nhập lệ tham gia lực lượng lao động ở hầu như mọi nơi đã tăng nhanh qua các năm. Như vậy, ở mỗi mức cho thấy những chuẩn mực này cũng thích ứng thu nhập trên đầu người, ngày càng có nhiều phụ nhanh chóng khi lợi ích kinh tế từ việc cho trẻ nữ hơn tham gia vào hoạt động kinh tế ngoài gia em gái đi học và phụ nữ đi làm trở nên rõ rệt. Ta đình hơn bao giờ hết. hãy xem xét những tiến bộ đáng kể về bình đẳng Có hai lý do giải thích vì sao tiến bộ đạt được giới ở hai đất nước rất khác nhau là Bănglađét và trong một số lĩnh vực về bình đẳng giới ở nhiều Côlômbia. nước đang phát triển đến nhanh hơn những nước giàu ngày nay trước đây khi còn ở những • Trong 40 năm qua kể từ khi Bănglađét giành mức thu nhập tương tự. Thứ nhất, thu nhập của được độc lập, số con bình quân mà một phụ nhiều nước đang phát triển tăng nhanh hơn. Kể nữ sẽ có trong cả cuộc đời đã giảm từ gần 7 từ năm 1950, 13 nước đang phát triển đã tăng con xuống còn hơn 2 con. Số trẻ em gái đi trưởng trung bình 7% một năm trong suốt 25 học đã tăng từ 1/3 năm 1991 lên 56% năm năm hoặc hơn – một tốc độ chưa từng thấy kể 2005. Đồng thời chỉ trong nửa cuối thập kỷ từ trước nửa cuối của thế kỷ 20.28 Thứ hai, nhiều 1990, mức tham gia vào lực lượng lao động của nữ thanh niên đã tăng hơn gấp đôi. lĩnh vực bình đẳng giới có liên hệ qua lại. Vì vậy, sự cải thiện ở một lĩnh vực sẽ thúc đẩy lĩnh vực • Ở Côlômbia, số con bình quân của một phụ khác. Tỉ lệ sinh đẻ giảm kèm theo thu nhập tăng nữ giảm từ 3,2 xuống 2,4 từ giữa những năm giúp giảm số người chết liên quan đến tử vong 1980 đến 2005. Bất bình đẳng về giáo dục đối mẹ. Nhờ đẻ ít con hơn mà phụ nữ có nhiều thời với phụ nữ cũng được đảo ngược và phụ nữ gian hơn để đầu tư vào nguồn vốn con người và hiện nay có tỉ lệ hoàn thành cấp học cao hơn tham gia vào nền kinh tế. Những bậc cha mẹ biết nam giới ở cấp tiểu học, trung học và thậm nhìn xa đáp lại những cơ hội việc làm rộng mở chí cả đại học. Côlômbia cũng là nước có bằng cách tăng đầu tư vào việc học hành của con mức tăng nhanh nhất tỉ lệ nữ tham gia lực gái. Trẻ em gái được học hành tốt hơn thường lượng lao động trong khu vực, với tỉ lệ tham muốn đi làm khi trưởng thành, có ít con hơn và gia thuộc nhóm cao nhất khu vực Mỹ Latinh. Tổng quan 13 Phụ nữ ở đây có mặt nhiều trong các vị trí quản lý và trong ngành tài chính – một bức HÌNH 6  Các nước thu nhập thấp đi sau trong thúc đẩy tiến bộ tường kính có tiếng là khó vượt qua nhất về số trẻ em gái đi học ngay cả ở nhiều nước giàu. 100 Vấn đề của các nhóm dân cư đặc biệt khó CH Ảrập Ai Cập khăn 90 Sự kết hợp của các lực lượng thị trường, các thể Bangladesh 80 chế cung cấp dịch vụ và tăng trưởng thu nhập Mozambique Số trẻ em gái đi học, 5–19 tuổi (%) Tajikistan góp phần thu hẹp khoảng cách về giới trong giáo 70 dục, tỉ lệ sinh đẻ và tỉ lệ tham gia lực lượng lao Nigeria Niger Côte d’Ivoire động đối với phụ nữ không phải đối với ai cũng 60 trở thành hiện thực. Đối với các phụ nữ nghèo Ethiopia 50 Buốckina Phasô và phụ nữ sống ở những nơi rất nghèo, bất bình đẳng giới vẫn tồn tại với mức độ đáng kể. Tình Mali 40 trạng bất bình đẳng này còn tồi tệ hơn khi ng- Pakistan hèo đói kết hợp với những yếu tố cản trở khác 30 như dân tộc, đẳng cấp, vùng sâu, chủng tộc, tàn Mỹ tật hay khuynh hướng tình dục. Ngay cả trong 20 năm 1900 giáo dục, tuy khoảng cách đã được thu hẹp ở 10 hầu hết các quốc gia nhưng số trẻ em gái đi học tiểu học và trung học ở các nước vùng Hạ Xa- 0 hara và một số nơi ở Nam Á cũng chỉ tăng thấp. 17 0 17 0 18 0 18 0 18 0 18 0 18 0 18 0 18 0 18 0 18 0 19 0 19 0 19 0 19 0 19 0 19 0 19 0 19 0 19 0 19 0 20 0 20 0 05 7 8 9 0 2 3 4 5 6 7 8 9 0 1 2 3 4 5 6 7 8 9 0 17 Số trẻ em gái đi học ở Mali hiện ngang bằng với năm mức của Mỹ năm 1810, cũng như tình hình ở Mỹ Êtiôpia và Pakitxtan cũng không được cải thiện đường xu hướng (Mỹ, 1850–2000) nhiều (Hình 6). Ở nhiều nước, bất bình đẳng giới chỉ tồn tại chủ yếu ở người nghèo. Ở cả Ấn Nguồn: Nhóm BCPTTG 2012 tính toán dựa trên Tổng điều tra của Mỹ và CSDL về Phân bổ Thu nhập Quốc tế (I2D2). Độ và Pakitxtan, trong khi trẻ em trai và trẻ em Chú thích: Các giá trị từ 1760 đến 1840 dựa trên xu hướng tỉ lệ nữ đi học từ 1850 đến 2000. gái thuộc nhóm ngũ phân vị (1/5) thu nhập cao nhất được đi học với cùng tỉ lệ thì vẫn tồn tại một khoảng cách giới tới gần 5 năm ở nhóm vì cơ hội kinh tế cho phụ nữ chưa có nhiều hoặc ngũ phân vị thu nhập cuối (Hình 7). do nhiều rào cản khác – như những rào cản bởi Ngoài người nghèo, bất bình đẳng giới chủ sắc tộc, chủng tộc hay đẳng cấp xã hội – đang yếu tồn tại đối với những nhóm đối tượng chịu hạn chế việc tiếp cận những cơ hội này. Quá trình ảnh hưởng của các yếu tố như dân tộc, khoảng cung ứng dịch vụ thường chứa đầy những vấn cách địa lý và các yếu tố khác (như tàn tật hay đề do đói nghèo, khoảng cách địa lý và phân biệt khuynh hướng tình dục) làm bất bình đẳng giới đối xử, đồng nghĩa với việc những đối tượng trên trầm trọng thêm. Gần 2/3 số trẻ em gái không sẽ không nhìn thấy số trường học hay giáo viên được đi học trên toàn thế giới là người dân tộc được tăng lên. Nhưng điều này không có nghĩa thiểu số ở nước mình.29 Tỉ lệ thất học của phụ nữ là những kênh hậu thuẫn cho giáo dục trẻ em gái dân tộc ở Goatêmala cao tới 60%, cao hơn nam ở những nơi khác sẽ không có tác dụng đối với giới người dân tộc tới 20 điểm phần trăm và cao những nhóm đối tượng này. Trên thực tế, điều gấp đôi so với phụ nữ không phải người dân tộc đó có nghĩa là chúng ta cần tiếp tục nỗ lực gấp thiểu số.30 đôi để bảo đảm xây dựng được những nền tảng Đối với những nhóm đối tượng đặc biệt khó cơ bản cho sự tiến bộ (tăng thu nhập toàn diện, khăn này, dù là cục bộ hay cả một quốc gia hay mở ra cơ hội việc làm cho phụ nữ, cung ứng dịch khu vực, không một yếu tố hậu thuẫn nào có lợi vụ hiệu quả). Những nỗ lực này có thể cần phải cho việc giáo dục trẻ em gái và nữ thanh niên có được kết hợp với những can thiệp bổ sung nhằm hiệu quả. Vì vậy, mức tăng trong tổng thu nhập giải quyết những tồn tại cụ thể đang ảnh hưởng có thể chưa đủ rộng để đem lại lợi ích cho các hộ đến vấn đề bất bình đẳng giới (chương 7). nghèo. Các tín hiệu thị trường không xuất hiện 14 B Á O C Á O P HÁT T R I Ể N T H Ế G I Ớ I 2 0 1 2 HÌNH 7 Thiệt thòi của phụ nữ trong một nước rõ rệt hơn ở nhóm thu nhập thấp Bênanh CHDC Côngô Gambia 10 10 10 Học đến cấp trung vị, Học đến cấp trung vị, Học đến cấp trung vị, 15–19 tuổi 15–19 tuổi 15–19 tuổi 5 5 5 0 0 0 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 ngũ phân vị thu nhập ngũ phân vị thu nhập ngũ phân vị thu nhập Ấn Độ Pakixtan Tôgô 10 10 10 Học đến cấp trung vị, Học đến cấp trung vị, Học đến cấp trung vị, 15–19 tuổi 15–19 tuổi 15–19 tuổi 5 5 5 0 0 0 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 1 2 3 4 5 ngũ phân vị thu nhập ngũ phân vị thu nhập ngũ phân vị thu nhập trẻ em gái trẻ em trai Nguồn: Nhóm BCPTTG 2012 tính toán dựa trên số liệu EdAttain. BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI TỒN TẠI DAI có một giải pháp thể chế hay chính sách duy DẲNG Ở NHỮNG ĐÂU VÀ VÌ SAO? nhất nên khó thực hiện và dễ bị phong tỏa. Dẫn chứng cho vấn đề này là tỉ lệ tử vong nữ vượt Ngược lại với những lĩnh vực đã có nhiều tiến quá. Thứ hai, bất bình đẳng tồn tại khi có nhiều bộ, sự thay đổi đối với nhiều phụ nữ và trẻ em gái yếu tố hạn chế kết hợp lại để ngăn cản sự tiến còn diễn ra quá chậm hay không hề xuất hiện ở bộ. Bất bình đẳng trong lĩnh vực kinh tế (sự tồn nhiều lĩnh vực bình đẳng giới khác. Những thiệt tại dai dẳng của bất bình đẳng giới trong thu thòi về y tế thể hiện ở tỉ lệ tử vong tương ứng nhập và phân biệt giới trong công việc) và năng vượt quá của trẻ em gái và phụ nữ là một trong lực trung gian (khác biệt trong vị thế xã hội và những lĩnh vực trên. Nhiều lĩnh vực bất bình quyền ra quyết định ở gia đình) minh họa cho đẳng giới dai dẳng khác cũng vậy, như bất bình vấn đề này. Thứ ba, bất bình đẳng giới đặc biệt đẳng trong hoạt động kinh tế, bất bình đẳng giới tồn tại lâu dài khi đã bám rễ sâu vào những chức trong thu nhập, bất bình đẳng giới trong trách năng giới và chuẩn mức xã hội lâu đời, như ai là nhiệm làm công việc nhà, chăm sóc gia đình, bất người có trách nhiệm chăm nom, quán xuyến bình đẳng trong sở hữu tài sản, cũng như những công việc nhà, hay điều gì là “chấp nhận được” hạn chế về năng lực trung gian của phụ nữ cả để phụ nữ, nam giới được học, làm, mong ở khu vực công và tư. Tiến bộ trong những lĩnh muốn. Những bất bình đẳng này có xu hướng vực này rất khó nhận thấy cho dù nhiều nơi trên tái diễn từ thế hệ này đến thế hệ khác. Ta hãy thế giới đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Trên cùng xem xét lần lượt từng yếu tố. thực tế, nhiều lĩnh vực bất bình đẳng giới vẫn tồn tại nhức nhối ngay cả ở những nước giàu nhất. Tỉ lệ tử vong trẻ em gái và phụ nữ tăng Bất bình đẳng giới tồn tại dai dẳng ở những Tỉ lệ tử vong trẻ em gái và phụ nữ so với nam lĩnh vực này vì ba lý do chính. Thứ nhất, vì chỉ giới ở các nước thu nhập thấp và trung bình cao Tổng quan 15 BẢNG 1 Gần 4 triệu phụ nữ thiếu hụt mỗi năm Số ca tử vong nữ vượt quá trên thế giới, theo độ tuổi và khu vực, 1990 và 2008 (nghìn người) Tổng số phụ nữ TE gái khi sinh TE gái dưới 5t TE gái 5–14t phụ nữ 15–49t phụ nữ 50–59t dưới 60t 1990 2008 1990 2008 1990 2008 1990 2008 1990 2008 1990 2008 Trung Quốc 890 1.092 259 71 21 5 208 56 92 30 1.470 1.254 Ấn Độ 265 257 428 251 94 45 388 228 81 75 1.255 856 Hạ Xahara Châu Phi 42 53 183 203 61 77 302 751 50 99 639 1.182 Các nước có tỷ lệ hiện nhiễm HIV cao 0 0 6 39 5 18 38 328 4 31 53 416 Các nước có tỷ lệ hiện nhiễm HIV thấp 42 53 177 163 57 59 264 423 46 68 586 766 Nam Á (trừ Ấn Độ) 0 1 99 72 32 20 176 161 37 51 346 305 Đông Á - TBD (trừ Trung Quốc) 3 4 14 7 14 9 137 113 48 46 216 179 Trung Đông và Bắc Phi 5 6 13 7 4 1 43 24 15 15 80 52 Châu Âu và Trung Á 7 14 3 1 0 0 12 4 4 3 27 23 Mỹ Latin và Caribê 0 0 11 5 3 1 20 10 17 17 51 33 Tổng số 1.212 1.427 1.010 617 230 158 1.286 1.347 343 334 4.082 3.882 Nguồn: Nhóm BCPTTG 2012 tính toán dựa trên số liệu của Tổ chức Y tế Thế giới 2010 và Ban Kinh tế - Xã hội Liên hợp quốc 2009. Chú thích: Các tổng số không nhất thiết là tổng chính xác của các số lẻ do làm tròn số. hơn ở các nước thu nhập cao. Để lượng hóa tỉ lệ tuổi sinh đẻ. Một phần mức tăng này có nguyên tử vong nữ cao này (số trẻ em gái và phụ nữ “bị nhân là dân số tăng. Nhưng khác với Châu Á, thiếu hụt”) và xác định độ tuổi xảy ra tử vong, nơi có số lượng nữ tử vong có điều chỉnh theo báo cáo tính toán số ca tử vong nữ vượt quá ở quần thể giảm ở tất cả các nước (nhiều nhất là ở từng độ tuổi và ở từng nước trong các năm 1990, Bănglađét, Inđônêxia và Việt Nam), phần lớn các 2000 và 2008.31 Số ca tử vong nữ vượt quá trong nước vùng Hạ Xahara vẫn chưa cho nhiều thay một năm nào đó đại diện cho những phụ nữ sẽ đổi khi bước sang thiên niên kỷ mới. Ở những không bị chết trong năm trước nếu được sống ở nước có nạn dịch HIV/AIDS trầm trọng nhất, một nước thu nhập cao, sau khi đã tính đến bối tình hình còn tồi tệ hơn nhiều. cảnh y tế chung của đất nước mà họ đang sống. Phần phân tích của báo cáo sẽ giúp giải thích Tính toàn thế giới, tỉ lệ tử vong nữ sau sinh vượt những mô hình trên. Tùy vào chu kỳ vòng đời, quá và số trẻ em gái “thiếu hụt” khi sinh mỗi năm số trẻ em gái và phụ nữ bị thiếu hụt vì nhiều lên tới gần 3,9 triệu phụ nữ dưới 60 tuổi. Khoảng nguyên nhân. Trẻ em gái thiếu hụt khi sinh thể 2/5 số này chết trước khi sinh, 1/5 chết trong thai hiện sự phân biệt đối xử công khai ở gia đình, kỳ và độ tuổi trẻ nhỏ, 2/5 còn lại chết từ 15 đến xuất phát từ sự kết hợp của tư tưởng trọng nam, 59 tuổi (Bảng 1). tỉ lệ sinh đẻ giảm và sự phát triển của các công Tăng trưởng không giúp xóa bỏ vấn đề này. Từ nghệ cho phép cha mẹ biết được giới tính của 1990 đến 2008, số lượng trẻ em gái thiếu hụt khi trẻ trước khi sinh.32 Đây là vấn đề đặc biệt phổ sinh và tỉ lệ tử vong nữ sau sinh vượt quá không biến ở Trung Quốc và miền bắc Ấn Độ (tuy hiện có nhiều thay đổi; số ca tử vong trong thai kỳ và nay cũng đã lan sang những vùng khác của Ấn giai đoạn trẻ nhỏ giảm bị bù trừ bởi mức tăng Độ), nhưng cũng khá phổ biến ở một số khu vực nhanh ở khu vực Hạ Xahara Châu Phi trong độ vùng Cápcadơ và Tây Bancăng. 16 B Á O C Á O P HÁT T R I Ể N T H Ế G I Ớ I 2 0 1 2 Thiếu hụt trẻ em gái trong thai kỳ và giai đoạn qua, chỉ có 90 nước giảm được 40% trở lên tỉ lệ trẻ nhỏ không chỉ xuất phát từ tư tưởng trọng tử vong mẹ, trong khi 23 nước có tỉ lệ này tăng. nam tuy sự phân biệt đối xử đối với con gái cũng Vấn đề chính vẫn là ở chỗ hộ gia đình phải đưa ra là một yếu tố góp phần. Đây là hậu quả của cả nhiều quyết định trong số những lựa chọn kém tình trạng phân biệt đối xử cũng như thể chế yếu chất lượng – hậu quả của rất nhiều khiếm khuyết buộc hộ gia đình phải chọn lựa trong số nhiều trong cung ứng dịch vụ. Ở nhiều nơi trên thế lựa chọn kém chất lượng, đặc biệt là về nước giới, tình hình này còn trở nên xấu đi bởi những sạch, vệ sinh. Thị trường và hộ gia đình không chuẩn mực xã hội có ảnh hưởng đến hành vi thể bù đắp cho những dịch vụ yếu kém này. của hộ gia đình gây khó khăn cho phụ nữ khi Thiếu hụt phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ thể cần được chăm sóc thai sản nhanh chóng kể cả hiện qua hai yếu tố chính. Thứ nhất, tỉ lệ tử vong ở những nơi có sẵn dịch vụ. Tỉ lệ sinh cao một mẹ cao và tồn tại dai dẳng, nhất là ở đa số khu phần phản ánh thu nhập thấp, là nguyên nhân vực Hạ Xahara Châu Phi và một số nơi ở Nam của vấn đề này ở khu vực Hạ Xahara Châu Phi. Á. Tỉ lệ tử vong mẹ cao là yếu tố chính dẫn đến Thứ hai, bệnh dịch HIV/AIDS có tác động tỉ lệ tử vong phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ cao. nghiêm trọng đến tỷ lệ tử vong phụ nữ tại các Ở Apganitxtan, Sát, Ghinê Bitxao, Libêria, Mali, quốc gia Đông và Nam Phi. Nguyên nhân dẫn Nigiê, Xiêra Lêôn, Xômali, ít nhất cứ 25 phụ nữ đến tỷ lệ lây nhiễm HIV/AIDS ở phụ nữ cao hơn có một người chết vì biến chứng khi sinh đẻ hay nam giới là do phụ nữ có nguy cơ bị ảnh hưởng trong thai kỳ. Tỉ lệ những người phải chịu các hậu cao hơn nam giới, đồng thời khả năng bạn đời quả sức khỏe lâu dài sau này do sinh con còn lớn của phụ nữ thường lớn tuổi hơn nên có khả năng hơn nhiều.33 bị nhiễm HIV cao hơn là những nam giới trẻ tuổi Các tiến bộ trong việc giảm tỉ lệ tử vong mẹ hơn. Ngoài ra, các quốc gia xảy ra xung đột dân chưa tương xứng với mức tăng thu nhập. Ở Ấn sự ngầm (ví dụ như Cộng Hòa Dân chủ Công- Độ, bất chấp mức tăng trưởng kinh tế xuất sắc gô) cũng có tỷ lệ phụ nữ “mất tích” gia tăng. Điều trong những năm gần đây, tử vong mẹ vẫn cao này trái ngược với các quốc gia khác trải qua gấp gần 6 lần so vơi Xri Lanka. Trong 20 năm chiến tranh trực diện – như Eritrea, tại các quốc gia này tỷ lệ nam giới “mất tích’ trong những năm chiến tranh tăng cao hơn. Một cuộc điều tra kinh nghiệm lịch sử các H ình 8 Phụ nữ và nam giới làm việc trong những lĩnh vực  quốc gia Bắc và Tây Ấu và Hoa Kỳ tương tự cũng khác nhau cho thấy tỷ lệ tử vong ở phụ nữ thời kỳ sơ sinh phân bổ việc làm nữ giới/nam giới ở các ngành nghề và trong những năm tháng sinh đẻ rất cao, tuy nhiên tỷ lệ này đã giảm mạnh trong giai đoạn từ 31% Dịch vụ truyền thông 16% 1900 đến 1950. Nguyên nhân chính giảm tỷ lệ tử vong là nhờ những cải thiện về chất lượng của 21% Bán lẻ, khách sạn và nhà hàng 17% các thể chế – trong cung cấp nước sạch, vệ sinh 13% Sản xuất 12% môi trường và chăm sóc sức khỏe bà mẹ. Bởi vì chỉ có duy nhất một cách –thông qua cải thiện 4% Tài chính, kinh doanh 4% chất lượng các thể chế – để gải quyết vấn đề tử vong ở phụ nữ, vì vậy giải quyết vấn đề này rất 0.5% Điện lực, khí đốt, hơi nước, nước 1% khó – còn khó hơn nhiều việc khuyến khích học 0.5% Khai mỏ 2% sinh nữ đến trường. Nhưng với những kỳ vọng cơ bản về công bằng nhân loại, cộng đồng phát 2% Giao thông vận tải và thông tin 7% triển toàn cầu cần xác định giải quyết vấn đề này là ưu tiên hàng đầu. 27% Nông nghiệp, săn bắn 29% 1% Xây dựng 11% Phân chia giới trong hoạt động kinh tế và khoảng cách thu nhập 100% Tất cả các ngành/các nghề 100% Mặc dù trong ¼ thế kỷ qua, đã có rất nhiều phụ nữ tham gia vào lực lượng lao động tại rất nhiều quốc gia trên thế giới, tuy nhiên điều này không Nguồn: Tính toán của BCPTTG 2012 dựa trên nguồn của Tổ chức Lao động Quốc tế 2010 (77 nước) có nghĩa là phụ nữ có cơ hội làm việc hoặc cơ hội Lưu ý: Tổng số có thể không chính xác do làm tròn số. có thu nhập tương đương với nam giới. Phụ nữ Tổng quan 17 B ản đồ 1 Khoảng cách thu nhập giữa phụ nữ và nam gới (thu nhập của phụ nữ so với 1 USD thu nhập của nam giới) Đức 62¢ Aixơlen 69¢ Gioócgia 60¢ Ấn Độ 64¢ Ai Cập 82¢ Bănglađét 12¢ Mê-hi-cô 80¢ Bênanh 80¢ Nigiêria 60¢ Etiôpia 34¢ Xrilanca 50¢ Malauy 90¢ Công nhân Nông dân Doanh nhân hưởng lương Nguồn: Dữ liệu cho Bênanh từ nguồn Kinkingninhoun-Mêdagbé và các tác giả khác 2010; dữ liệu Malawi từ nguồn Gilbert, Sakala, và Benson 2002; dữ liệu Nigeria từ nguồn Oladeebo và Fajuyigbe 2007; dữ liệu Bangladesh, Ethiopia, và Sri Lanka từ nguồn Costa và Rijkers 2011; và dữ liệu Egypt, Georgia, Germany, Iceland, India, và Mexico từ nguồn LABORSTA, Tổ chức Lao động Quốc tế. và nam giới có xu hướng làm việc trong những thu nhập và năng suất lao động giữa các giới vẫn khu vực khác nhau trong “không gian kinh tế”, còn tồn tại trong tất cả các hình thức hoạt động tình trạng này không có gì biến chuyển trong thời kinh tế - trong nông nghiệp, trong vai trò người gian dài, thậm chí tại các quốc gia có thu nhập làm công ăn lương, và cả vai trò người lãnh đạo cao. Ở hầu hết các quốc gia, tỷ lệ phụ nữ tham doanh nghiệp (Bản đồ 1). Tại hầu hết các quốc gia vào các hoạt động năng suất thấp thường cao gia, phụ nữ làm việc trong lĩnh vực sản xuất công hơn nam giới. Phụ nữ cũng chịu nguy cơ phải nghiệp có thu nhập thấp hơn nam giới. Trong làm việc gia đình không công hoặc làm việc trong nông nghiệp, nhìn chung các trang trại do phụ lĩnh vực thuê mướn không chính thức. Trong nữ điều hành thường có năng suất thấp hơn so lĩnh vực nông nghiệp, đặc biệt là ở Châu Phi, với các trang trại do nam giới điều hành, thậm phụ nữ thường phải làm việc trên những cánh chí là nam giới và phụ nữ cùng thuộc các hộ đồng nhỏ và canh tác các giống cây trồng mang gia đình và cùng canh tác một loại cây trồng.34 lại lợi nhuận thấp. Với vai trò là doanh nhân, phụ Những nữ doanh nhân cũng có hiệu suất làm nữ có xu hướng quản lý các công ty nhỏ và tập việc thấp hơn nam doanh nhân.35 Tại các khu đô trung hoạt động trong các lĩnh vực mang lại ít thị ở Đông Âu và Trung Á, Mỹ La Tinh và khu lợi nhuận. Còn trong thị trường việc làm chính vực Hạ Xahara châu Phi, giá trị gia tăng tính trên thức, đa phần phụ nữ làm những công việc và một công nhân của các công ty do nữ quản lý lĩnh vực “dành cho phái nữ” (hình 8). Tình trạng thường thấp hơn các công ty do nam giới quản phân chia giới trong hoạt động kinh tế đã có lý.36 Đối với các công ty đang hoạt động ở vùng những biến chuyển cùng với quá trình phát triển nông thôn Băng-la-đét, Êtiôpia, In-đô-nê-xia và kinh tế nhưng không biến mất hoàn toàn. Xri Lanka, lợi nhuận giữa các công ty do nam Do những phân chia về môi trường làm việc giới sở hữu và các công ty do phụ nữ sở hữu có giữa nam giới và phụ nữ như vậy, khoảng cách sự cách biệt rất lớn.37 18 B Á O C Á O P HÁT T R I Ể N T H Ế G I Ớ I 2 0 1 2 H ình 9 Giải thích tình trạng phân chia giới và khoảng cách thu nhập tồn tại dai dẳng ỨC ÍNH TH V Ự C PHI CH KHU ề ã hội v mực x Chuẩn óc/việc làm s chăm rường thị t CƠ HỘI KINH TẾ ỜNG TRƯ ác biệt CÁC HỘ THỊ kh ụng cận tín d GIA ÐÌNH Tiếp động/ ất đai Phân bổ thời gian ao gđ tới l ì trườn g lưới và nguồn lực th ạn khác biệt và m ÐẠI LÝ TRAO QUYỀN KHU VỰC Các CHÍ luật NH lệ và THỨ thiê C n vị quy tầng v à cơ s đ ịnh hạn ở hạ chế TĂ NG Ư TR ỞN G Nguồn: Nhóm tác giả BCPTTG 2012. Vậy tại sao hiện tượng phân biệt giới trong cách về thu nhập. Ở hầu hết các quốc gia, không hoạt động kinh tế vẫn còn tồn tại dai dẳng và gây phân biệt thu nhập, phụ nữ phải gánh phần lớn nên những khoảng cách thu nhập như vậy? Báo công việc nhà và chăm sóc gia đình, trong khi cáo cho thấy những chênh lệch giữa phụ nữ và nam giới chủ yếu chịu trách nhiệm làm kinh tế nam giới trong vấn đề thời gian sử dụng, trong (hình 10). Khi tất cá các hoạt động này gia tăng, khả năng tiếp cận tài sản và tín dụng, trong vấn phụ nữ thường phải làm việc nhiều giờ hơn đề đối xử của thị trường và các thể chế chính nam giới, và điều này ảnh hưởng đến thời gian thức (bao gồm cả khung quy định và pháp lý) giải trí và hạnh phúc của họ. Và ở khắp mọi nơi đều góp phần hạn chế cơ hội của phụ nữ. Những trên thế giới, phụ nữ dành nhiều thời gian mỗi hạn chế này được chỉ ra trong hình 9, những ngày để chăm sóc gia đình và làm việc nhà hơn yếu tố đan xen này đã ngăn cản quá trình tiến người chồng: chênh lệch thời gian làm việc nhà tới bình đẳng giới toàn diện hơn. Tăng trưởng dao động từ 1 đến 3 tiếng, thời gian chăm sóc thu nhập có tác dụng ảnh hưởng đến chuyển đổi gia đình (con cái, cha mẹ già, người bệnh) dao những yếu tố này nhưng không thế giúp xóa bỏ động từ 2 đến 10 lần, và thời gian tham gia các hoàn toàn những yếu tố kìm hãm đó. Hơn nữa, hoạt động thị trường thấp hơn nam giới từ 1 những yếu tố này tương tác và hỗ trợ tăng cường đến 4 tiếng. Thậm chí ngay cả khi phụ nữ dành lẫn nhau khiến việc giải quyết vấn đề trở nên đặc nhiều thời gian làm việc thị trường hơn người biệt khó khăn. Chúng ta cùng xem xét lần lượt chồng, họ vẫn phải chịu trách nhiệm chính từng yếu tố. cho việc chăm sóc gia đình và làm việc nhà. Và Phân bổ thời gian làm việc nhà và các công những mô hình này chỉ thể hiện một cách rõ việc gia đình liên quan giữa phụ nữ và nam giới ràng hơn sau khi kết hôn và sinh đẻ. khác nhau cũng là một nhân tố gây nên tình Nhân tố thứ hai dẫn đến sự phân chia lĩnh trạng phân tách giới và kéo theo đó là khoảng vực việc làm và khoảng cách thu nhập chính là sự Tổng quan 19 Trên toàn thế giới, phụ nữ dành nhiều thời gian trong một ngày để HÌNH 10  chăm sóc gia đình và làm việc nhà hơn nam giới FOR SALE Các hoạt động thị trường Việc nhà Chăm sóc trẻ em Pakítxtan 0.6 4.7 5.5 2.5 1.2 0.2 Cămpuchia 2.7 3.8 4.4 3.3 0.9 0.1 Nam Phi 2.1 3.8 4.2 1.8 0.5 0.0 Bungari 2.9 3.9 4.7 2.6 0.4 0.1 Thụy Điển 3.2 4.6 3.2 2.3 0.6 0.3 Ý 2.1 4.8 4.9 1.4 0.6 0.2 phụ nữ = 12 giờ nam giới Nguồn: Berniell và Sanchez-Páramo 2011. khác biệt về nguồn lực con người và vật chất (bao của các nhóm trẻ tuổi chọn theo học –những gồm cả khả năng tiếp cận tài sản và tín dụng). khác biệt này lại tác động đến tình trạng phân Mặc dù trình độ giáo dục của phụ nữ có tăng chia việc làm, đặc biệt là ở các quốc gia mà hầu cao hơn, tuy nhiên những chênh lệch về vốn con hết những người trẻ tuổi theo học đại học. Trong người giữa nam giới và phụ nữ giới vẫn còn tồn lĩnh vực nông nghiệp và quản trị doanh nghiệp, tại. Những chênh lệch này bao gồm chênh lệch những bất bình đẳng giới lớn và quan trọng liên số năm đi học giữa các nhóm lớn tuổi và những quan đến khả năng tiếp cận yếu tố đầu vào (bao khác biệt chuyên ngành mà nam giới và nữ giới gồm đất đai và tín dụng) và quyền sở hữu tài sản 20 B Á O C Á O P HÁT T R I Ể N T H Ế G I Ớ I 2 0 1 2 hộ gia đình do phụ nữ làm chủ ít có khả năng sở HÌNH 11  Khác biệt giới trong năng suất nông nghiệp biến mất hữu và canh tác đất.38 Nhìn chung, nếu có bằng khi khả năng tiếp cận và sử dụng các yếu tố đầu vào chứng về tất cả nông dân thì phụ nữ hiếm khi sản xuất được xem xét sở hữu mảnh đất họ canh tác. Ví dụ, ở Braxin, phụ nữ chỉ sở hữu 11% đất đai. Và diện tích đất Ở Malauy, sản lượng nông nghiệp của phụ nữ đai phụ nữ nắm giữ thấp hơn nhiều so với diện thấp hơn 13.5% so với nam giới tích đất đai do nam giới nắm giữ. Tại Kênia, phụ sự khác biệt này mất đi khi phụ nữ và Malawi (Quốc gia) –13.5% 0.6% nữ chiếm 5% số chủ sở hữu đất đã đăng ký trên toàn quốc gia.39 Và tại Gana, diện tích đất đai do nam giới được tiếp cận công bằng tới đầu vào –40% Nigeria (Bang Osun) 0% nam giới nắm giữ lớn gấp 3 lần diện tích đất đai –21% do nữ giới nắm giữ.40 Những cách biệt lớn tương Benin (miền Trung) 0% tự cũng tồn tại trong việc sử dụng phân bón và Ghana (Quốc gia) –17% các giống cây trồng cải tiến trong nông nghiệp, 0% và trong quá trình tiếp cận và sử dụng tín dụng Ethiopia (Cao nguyên miền Trung) –26% –25% giữa các doanh nhân. Thứ ba, những hạn chế về mặt thị trường –7.7% Kenya (Địa phương) 12.5% cũng như những thể chế là một nguyên nhân –19% khác giải thích hiện tượng bất bình đẳng giới. Kenya (phía Tây), 2008 0% Thị trường lao động thường không hiệu quả đối Kenya (phía Tây), 1976 –4% với phụ nữ, đặc biệt khi phụ nữ chỉ hạn chế tham 6.6% gia một số lĩnh vực hoặc một số nghệ nghiệp cụ –60 –50 –40 –30 –20 –10 0 10 20 thể. Khi một số rất ít phụ nữ được tuyển dụng, phần trăm người sử dụng lao động có thể vẫn có quan niệm khoảng cách giới trung bình phân biệt đối xử về năng suất lao động của phụ khoảng cách giới với tiếp cận công bằng tới đầu vào nữ hoặc vai trò thích hợp của phụ nữ với vị trí công việc – những quan niệm này sẽ mãi tồn tại nếu không có cơ chế thay đổi được thực hiện. Truy cập thông tin việc làm, và hỗ trợ thăng tiến Nguồn: Alene và cộng sự, 2008; Gilbert, Sakala, và Benson 2002; Kinkingninhoun-Mêdagbé và cộng sự, 2010; thường xuất hiện tại các mạng thông tin phân Moock 1976; Oladeebo và Fajuyigbe 2007; Saito, Mekonnen, và Spurling 1994; Vargas Hill và Vigneri 2009. biệt giới, gây tổn thương cho những phụ nữ cố gẳng tham gia vào một lĩnh vực chủ yếu của nam chính là nguồn gốc gây nên chênh lệch năng suất giới (hoặc tương tự cũng có thể ảnh hướng tới giữa các giới. Trên thực tế, tình trạng chênh lệch những nam giới muốn tham gia vào một lĩnh năng suất giữa các nông dân nam giới và nữ giới vực chủ yếu của phụ nữ, chẳng hạn như lĩnh không còn nữa nếu khả năng tiếp cận các yếu tố vực điều dưỡng). Và đôi khi, các rào cản pháp đầu vào sản xuất được xem xét (hình 11). Những lý, được xem như các biện pháp bảo vệ, cũng cản cách biệt trong khả năng tiếp cận các yếu tố đầu trở phụ nữ thâm nhập vào một số lĩnh vực hoặc vào có thể còn rộng hơn do những chênh lệch nghề nghiệp nào đó. về “thời gian thị trường” như đã thảo luận trên Tóm lại, cho dù phụ nữ là nông dân, doanh đây, điều này có thể dẫn đến cùng một khoản nhân, hay công nhân, rất nhiều người vẫn bị mắc đầu tư, nhưng hiệu quả của phụ nữ sẽ luôn thấp kẹt trong bẫy năng suất lao động: làm việc vất vả hơn của nam giới. Những hạn chế này cho thấy trong một sân chơi không công bằng, bất bình những nữ doanh nhân và nông dân nữ thường đẳng trong khả năng tiếp cận các yếu tố đầu vào. bị hạn chế trong những công việc kinh doanh và Cái bẫy này ảnh hưởng đáng kể đến phúc lợi và các hoạt động có lợi nhuận thấp hơn và ít có khả cơ hội của nữ giới hôm nay – cũng như là trở năng mở rộng hơn. ngại nghiêm trọng trong việc đầu tư vào phụ nữ Những khác biệt giới trong khả năng tiếp cận ngày mai. tài sản (đặc biệt là đất đai), tín dụng và các yếu tố đầu vào khác hiện đang ở mức độ nào? Một loạt Tiếng nói kém trọng lượng trong quá trình các nguồn dữ liệu đã chỉ ra rằng mức độ khác đưa ra các quyết định gia đình và xã hội biệt là rất lớn. Dữ liệu về 16 quốc gia thuộc 5 Ở nhiều nơi trên thế giới, phụ nữ ít được tham khu vực đang phát triển đã chỉ ra rằng những gia vào quá trình ra quyết định trong gia đình, Tổng quan 21 trong cộng đồng và trong xã hội hơn nam giới. Có nhiều nhân tố tại nơi làm việc cũng ảnh Lấy ví dụ là việc có quá ít nữ giới tham gia các vị hưởng đến khoảng cách khá lớn trong tiếng nói trí chính trị chính thức, đặc biệt là các vị trí cấp của nữ giới. Trong xã hội, tỷ lệ phụ nữ tham gia cao. Nữ giới nắm giữ chưa đến 1/5 tổng số ghế lao động thấp có thể đang tự tồn tại, và phụ nữ trong nội các. Cũng có rất ít nữ giới tham gia các không có cơ hội thể hiện khả năng lãnh đạo của cơ quan tư pháp và liên đoàn lao động. Những mình. Chính vì thế, trong chính trị, các cử tri sẽ tỷ lệ này không thay đổi nhiều cho dù các quốc không đánh giá được đúng khả nắng của một nữ gia giàu có lên. Từ năm 1995 đến năm 2009, tỷ lệ lãnh đạo. Và số lượng phụ nữ tham gia vào các nghị sĩ nữ mới chỉ tăng từ 10% lên 17%. vị trí đó còn bị hạn chế do một quan niệm xã hội Việc nữ giới có được tham gia vào quá trình cho rằng làm chính trị là công việc của nam giới đưa ra quyết định chi tiêu hay không và được hoặc cho rằng phụ nữ là những nhà lãnh đạo tham gia bao nhiêu vào những quyết định chi kém hiệu quả hơn nam giới – những quan niệm tiêu trong gia đình, bao gồm cả chi tiêu cho này rất khó xóa bỏ trừ khi số phụ nữ tham gia con cái, là những yếu tố quan trọng thể hiện vai vào các vị trí lãnh đạo chính trị tăng cao. Trách trò của người phụ nữ. Có tới 1/3 phụ nữ đã kết nhiệm công việc khác nhau cũng có nghĩa là nữ hôn ở Malauy và 1/5 phụ nữ đã kết hôn ở Ấn giới không thể chủ động hoặc không có nhiều Độ không được phép tham gia vào các quyết thời gian đầu tư tham gia vào các thể chế chính định chi tiêu, thậm chí là các khoản chi tiêu dựa trị như nam giới. Việc thiếu các mạng lưới dành trên thu nhập của chính phụ nữ đó. Thậm chí ở cho nữ giới cũng làm cho họ gặp nhiều khó khăn một quốc gia thu nhập trung bình cao như Thổ hơn khi vươn tới những vị trí quyền lực trong Nhĩ Kỳ, hơn ¼ số phụ nữ đã kết hôn trong tầng các đảng chính trị hoặc trong các liên đoàn lao lớp có điểm phân vị thu nhập thấp nhất không động. có quyền kiểm soát thu nhập của chính họ.41 Trong gia đình, hai nhân tố quan trọng quyết Thường trong thực tế, khả năng sở hữu, kiểm định tiếng nói của người phụ nữ là thu nhập và soát và định đoạt tài sản của phụ nữ vẫn khác so quyền kiểm soát tài sản gia đình. Tăng trưởng với nam giới – đôi khi khác từ các quy định pháp kinh tế có thể cải thiện điều kiện vật chất để thực lý. Và một lần nữa, những tình trạng này chỉ thay hiện quyền làm chủ của người phụ nữ, trong đó đổi chậm chạp khi các quốc gia giàu lên. nhìn chung phụ nữ trong các gia đình giàu có đã Một biểu hiện thiếu quyền làm chủ rõ ràng có tiếng nói mạnh mẽ hơn. Tuy nhiên, chỉ với chính là bạo hành gia đình. Trái với tự do, bạo thu nhập hộ gia đình cao hơn không đủ để xóa hành là là một hình thức cưỡng chế cực đoan, bỏ việc phụ nữ ít có khả năng thực hiện quyền phủ định quyền làm chủ của người phụ nữ. làm chủ. Tất cả các yếu tố như thu nhập, tài sản Phụ nữ có nhiều nguy cơ bị bạo hành cao bởi hoặc khả năng làm kinh tế của người phụ nữ chính người chồng hoặc người quen biết hơn là đều góp phần làm tăng năng lực đàm phán hoặc bạo hành bởi những người khác. Và so với nam tăng khả năng tham gia vào các quyết định gia giới, phụ nữ có nhiều khả năng bị giết, bị trọng đình của phụ nữ. Ở Ấn Độ, việc sở hữu một số thương hoặc trở thành nạn nhân của bạo lực lượng tài sản đáng kể giúp nữ giới có nhiều tiềng tình dục do bạn đời gây ra.42 Mức độ bạo lực gia nói hơn trên nhiều khía cạnh trong gia đình và đình giữa các quốc gia có những khác biệt rất giảm nguy cơ bị bạo hành gia đình.45 Tương tự, lớn, và không có quan hệ rõ ràng với thu nhập; tỷ lệ đóng góp vào thu nhập hộ gia đình của nữ trong khi phạm vi ảnh bạo hành có xu hướng gia giới tại Côlumbia và Nam Phi ngày càng tăng, và tăng cùng với suy thoái kinh tế - xã hội, bạo lực do đó quyền tham gia vào các quyết định quan không phân biệt ranh giới. Tại một số quốc gia trọng trong gia đình của họ cũng ngày càng có thu nhập trung bình, chẳng hạn như Braxin được cải thiện. Cũng có một minh chứng cho (Sao Paolo và khu vực Pernambuco) và Sécbia thấy mối quan hệ giữa tài sản, thu nhập, tỷ lệ (Bengrát), phụ nữ báo cáo rằng có tới 25% nữ đóng góp trong thu nhập hộ gia đình và vấn đề giới bị bạn đời hoặc người thân bạo hành thể bạo hành gia đình.46 chất.43 Tại Pêru (Cusco), gần 50 % nữ giới là nạn Nhưng nếu thu nhập của nữ giới bị giới hạn nhân của những bạo hành thể chất trong suốt trong các cơ hội kinh tế và quyền sở hữu tài sản cuộc đời, và theo báo cáo ở Êtiôpia (Butajira), do những thị trường có vấn đề hoặc những rào 54% phụ nữ bị người thân lạm dụng thể chất cản kỳ thị giới, thì tiếng nói của nữ giới trong hoặc tình dục trong vòng 12 tháng qua. 44 gia đình vẫn chỉ là con số không. Củng cố ảnh 22 B Á O C Á O P HÁT T R I Ể N T H Ế G I Ớ I 2 0 1 2 hưởng thị trường và ảnh hưởng pháp lý này lại lại qua nhiều thế hệ và vẫn không thay đổi thậm tạo ra một chuẩn mực xã hội cho rằng nam giới, chí khi thu nhập tăng lên. Bằng chứng cũng cho chứ không phải là nữ giới, là người đưa ra những thấy những trẻ em khi nhỏ đã phải chứng kiến quyết định lớn trong các gia đình bạo hành gia đình thì khi trưởng thành những chúng có xu hướng lặp lại những bạo hành đó.49 Bất bình đẳng giới tái tạo qua các thế hệ Những người phụ nữ ở Haiti đã từng chứng kiến Có lẽ vấn đề “dai dẳng nhất” của tác động giới bạo hành gia đình có nhiều khả năng phải báo chính là việc các mô hình bất bình đẳng giới rằng mình là nạn nhân của bạo hành thể chất luôn lặp lại từ thế hệ này sang thế hệ khác. Mô hoặc bạo hành tình dục.50 Điều này cũng xảy ra ở hình này còn tồn tại dai dẳng một phần là do Campuchia và Mê-hi-cô. 51 Và ở Nam Phi, những những chuyển biến chậm chạp trong các chuẩn nam giới đã từng chứng kiến bạo lực giữa cha mẹ mực xã hội và cách thức những chuẩn mực có nhiều khả năng sẽ trở thành những người gây này ảnh hưởng tới những gì đang diễn ra trong ra bạo hành thể chất.52 các hộ gia đình. Phụ nữ và nam giới tiếp thu Những chuẩn mực sống có thể học ngay trong các chuẩn mực và kỳ vọng xã hội theo những gia đình, nhưng những chuẩn mực này thường phương thức không chỉ ảnh hưởng đến khát được củng cố bởi các tín hiệu thị trường và các thể vọng, hành vi ứng xử và sở thích của riêng họ chế bao gồm nhiều khía cạnh có thiên vị giới. Ví mà còn ảnh hưởng đến khát vọng, hành vi ứng dụ, như chúng ta thảo luận trên đây, những khác xử và sở thích của con cái họ. Nghiên cứu Cuộc biệt giới liên quan đến trách nhiệm làm việc nhà sống trẻ (Young Lives) đã xem xét khát vọng và chăm sóc gia đình có căn nguyên nằm ở vai trò giáo dục và những kỹ năng ngoài nhận thức của giới, nhưng những trách nhiệm này lại bị chính sự 12.000 trẻ em nam và nữ ở lứa tuổi 8, 12, và 15 phân biệt đối xử trong thị trường lao động và việc tại Êtiôpia, Andha Pradesh Ấn Độ, Pê-ru và Việt thiếu các dịch vụ chăm sóc trẻ em củng cố thêm. Nam.47 Đối với trẻ em ở độ tuổi 12, những bậc Nguồn gốc sâu xa liên quan đến các lĩnh vực khác phụ huynh ở Êtiôpia và Ấn Độ thường thiên vị nhau mà nam giới và nữ giới theo học chính là sự cho bé trai được đến trường, còn ở Pê-ru và Việt kết hợp các nhân tố trong quyết định gia đình (các Nam, cha mẹ lại có xu hướng thiên vị cho các bé chuẩn mực về điều gì là phù hợp cho nam và nữ), nữ. Ở độ tuổi 15, những tiên bị này không còn các thể chế (các hệ thống giáo dục theo giới) và xuất phát từ phía phụ huynh nữa mà xuất phát các thị trường (các mạng thông tin phân biệt giới từ chính các em, ở Êtiôpia và Ấn Độ, số lượng và phân chia nghề theo giới). Đối với bạo hành gia đình, kết quả thực nghiệm đã phát hiện được rất trẻ em nam mong muốn được tiếp tục học tập nhiều nguyên nhân tại cấp độ cá nhân, hộ gia đình cao hơn hẳn, trong đó ở Việt Nam thì trẻ em nữ và cộng đồng, các nguyên nhân này lại được củng lại có nhu cầu được giáo dục cao hơn. Và vào cố bởi những nhận thức xã hội và thất bại thể chế độ tuổi 15, các biện pháp của cơ quan đại diện (bao gồm cả việc thiếu các luật và dịch vụ bảo vệ hoặc tính hiệu lực đã cho thấy một sự thiên vị hoặc tính thực thi của các thể chế này còn kém).53 nam giới mạnh mẽ ở Ấn Độ và Êtiôpia, nhưng điều này lại không xảy ra ở Pê-ru và Việt Nam. Chúng ta có thể rút ra bài học gì từ sự Một cơ quan nghiên cứu đang lớn mạnh cũng tồn tại dai dẳng của tất cả những khoảng khuyến nghị rằng thái độ đối với phụ nữ tại gia cách giới này? đình và nơi làm việc qua nhiều thế hệ vẫn không Các thị trường và thể chế (chính thức và không thay đổi. Khi phụ nữ chỉ làm công việc nội trợ chính thức) có thể cùng tác động tiêu cực đến trong gia đình, con cái của họ cũng ít có khả năng bình đẳng giới cao hơn. Đôi khi những bé gái sẽ ra ngoài làm việc khi trưởng thành, và con trai nhỏ và phụ nữ trong thời gian sinh đẻ không họ cũng ít có khả năng sẽ kết hôn với người phụ nhận được các dịch vụ chăm sóc từ các thể chế. nữ làm kinh tế bên ngoài.48 Thanh niên nam và Đôi khi các thị trường không hoạt động hiệu quả, nữ cũng có xu hướng học tập trong các lĩnh vực và kết quả là phụ nữ phải chịu những hậu quả rất khác nhau không có liên quan gì đến năng lực tồi tệ hơn. Điều này được minh chứng bằng việc bản thân (chương 3) – trong khi phụ nữ thích học phụ nữ bị phân biệt đối xử trong cả thị trường lao tập trong lĩnh vực giáo dục và nhân văn thì nam động và thị trường tín dụng. Tuy nhiên, những giới lại thích các ngành như kỹ sư, nông nghiệp thất bại thị trường này càng được củng cố hơn và khoa học. Tuy nhiên điều này vẫn lặp đi lặp bởi những thể chế chính thức, mà chính những Tổng quan 23 thể chế này lại phân biệt đối xử giới. Luật pháp tất cả các mặt trận. Một phần là do thu nhập cao và các quy định có thể hạn chế nhiều vai trò hơn và việc nhà nước quan tâm hơn đến việc và cơ hội của phụ nữ hơn so với nam giới, như cung cấp dịch vụ giúp thu hẹp khoảng cách giới phụ nữ và nam giới có quyền sở hữu khác nhau, chỉ được thực hiện ở một số lĩnh vực. Và thậm hoặc nữ giới bị hạn chế về thời gian làm việc và chí ngay ở trong những lĩnh vực này, nữ giới lĩnh vực làm việc còn nam giới thì không bị giới cũng không được tiếp cận những cải thiện đó. hạn. Trong trường hợp thị trường tín dụng và Ở các lĩnh vực bình đẳng giới khác như phân thị trường lao động đã tồn tại tình trạng phân chia nghề nghiệp và nhiều lĩnh vực thể hiện vai biệt đối xử, những điều luật và quy định bất bình trò của người phụ nữ, tăng trưởng thu nhập của đẳng như thế này có thể làm vấn đề khoảng cách nữ giới và cung cấp dịch vụ tốt hơn tới nữ giới giới nghiêm trọng hơn. Việc đối xử bất bình đẳng vẫn chưa có tác dụng mở khóa những ràng buộc cũng được thể hiện gián tiếp thông qua hành thông thường - là nguyên nhân sâu xa khiến cho động thiên vị trong cung cấp dịch vụ, ví dụ trong các khoảng cách giới vẫn còn tồn tại dai dẳng. trường hợp cung cấp các dịch vụ khuyến nông. Các lực lượng mới của quá trình toàn cầu hóa Trong trường hợp này, việc thiên vị thể chế và cơ có thể giúp thu hẹp khoảng cách giới rất nhiều. cấu thị trường (trong đó phụ nữ rất ít tham gia Trước tiên, việc mở cửa thương mại và việc phổ canh tác các loại cây trồng không thuộc nhóm biến công nghệ thông tin và truyền thông đã tạo cây lương thực nhưng lại là mục tiêu của các dịch ra nhiều việc làm hơn và nhiều liên kết mạnh mẽ vụ khuyến nông) củng cổ và thậm chí là khiến hơn đến các thị trường việc làm cho phụ nữ, tăng cho sự bất bình đẳng càng trở nên gay gắt hơn. khả năng tiếp cận các cơ hội kinh tế của phụ nữ Tất cả các thể chế (chính thức và không chính và góp phần nâng cao năng lực kinh tế của họ. thức) có tính ì rất lớn. Các thể chế này có xu Thứ hai, quá trình đô thị hóa và truy cập thông hướng phản ánh lợi ích của những cá nhân có tin đã cho phép nhiều quốc gia đang phát triển nhiều quyền lực và ảnh hưởng hơn, và các thể tìm hiểu về cuộc sống và tập tục ở các khu vực chế này rất khó có thể thay đổi nếu không xuất khác trên thế giới, bao gồm cả vai trò của người hiện bất kỳ cơ quan đại diện hoặc tiếng nói của phụ nữ, điều này có thể ảnh hưởng đến thái độ tập thể.54 Các chuẩn mực xã hội có thể thay đổi và hành vi. Thứ ba, các hành động cộng đồng đặc biệt chậm: các chuẩn mực được đưa ra chỉ vì liên quan đến bình đẳng giới được khuyến khích một mục đích duy nhất tại một thời điểm nhất phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết bởi vì việc định và đến nay đã không còn hữu ích nhưng vẫn toàn thế giới ngày càng đồng tình với việc nữ giới tồn tại đơn giản chỉ bởi vì xã hội sẽ trừng phạt phải được trao quyền kinh tế, xã hội và chính trị, người đầu tiên dám phá vỡ chuẩn mực này, hoặc điều này đồng nghĩa với việc bất bình đẳng giới bởi vì chuẩn mực này mang lại lợi ích cho một gây tổn hại tới vị thế quốc tế của một quốc gia. nhóm người thống trị trong xã hội (trong trường Nhưng tiềm năng toàn cầu hóa sẽ không được hợp này chính là nam giới). Sự tồn tại dai dẳng hiện thực hóa nếu không có các hành động cộng của chuẩn mực này có thể sẽ khiến tình trạng bất đồng hiệu quả trong quy mô quốc gia để thu hẹp bình đẳng giới còn tồn tại rất lâu sau khi nguồn lại các khoảng cách giới còn tồn tại trong vấn đề gốc ban đầu của tình trạng này đã không còn tồn vốn, vai trò tự chủ và khả năng tiếp cận các cơ tại. hội kinh tế. Tóm lại, những thất bại trên thị trường có Vậy, chính phủ ở các quốc gia đang phát triển phân biệt giới, những hạn chế về mặt thể chế, và nên làm gì để thúc đẩy hơn nữa bình đẳng giới? những chuẩn mực xã hội tồn tại dai dẳng thường Họ nên tập trung vào những khu vực bất bình kết hợp với nhau và khiến cho tình trạng bất bình đẳng giới nào? Họ có nên bắt đầu bằng các biện đẳng giới càng trở nên trầm trọng hơn và khiến pháp can thiệp vào giáo dục và y tế hay không, cho quá trình cải thiện bình đẳng giới phức tạp hay họ nên tập trung vào khả năng tiếp cận các hơn. Khi xuất hiện nhiều trở ngại, việc cần làm là cơ hội và thể chế kinh tế? Họ nên kết hợp các phải giải quyết tất cả những trở ngại đó. chính sách như thế nào và thực hiện theo thứ tự nào? Ngay từ đầu, các câu hỏi này có thể sẽ xuất hiện chồng chất bởi vì có rất nhiều khu vực ưu Những việc cần làm? tiên và số lượng các công cụ chính sách hiện có. Quá trình tăng trưởng và phát triển không diễn Báo cáo này cho thấy công tác phân tích tốt có ra tự động để có thể cải thiện bình đẳng giới trên thể góp phần làm giảm tính phức tạp trong quá 24 B Á O C Á O P HÁT T R I Ể N T H Ế G I Ớ I 2 0 1 2 trình lựa chọn và thiết kế chính sách theo nhiều không phải là kết quả. Khuôn khổ trong phần cách khác nhau. 2 của bản báo cáo sẽ giúp làm nổi bật những Đầu tiên là phải xác định được các khía cạnh nguyên nhân cơ bản này, và chỉ cho chúng ta bất bình đẳng giới cần được ưu tiên hàng đầu khi thấy phương thức các nguyên nhân này xuất hiện xây dựng chính sách. Ba tiêu chí quan trọng cần trong các hoạt động của thị trường và các thể chế, được xem xét liên quan đến vấn đề này là: và tác động qua lại giữa các nguyên nhân cũng như tác động của các nguyên nhân này đến các • Trước tiên phải xác định khoảng cách giới hộ gia đình. Hay nói cách khác, khuôn khổ này nào là quan trọng nhất để nâng cao phúc lợi chỉ ra những vấn đề cần được giải quyết và liệu xã hội và duy trì phát triển? Theo đó phải xác những biện pháp can thiệp có nên nhắm vào các định đâu là cái giá lớn nhất có thể phải đánh thị trường, các thể chế chính thức, các thể chế đổi với sự phát triển khi giải quyết những bất không chính thức và một số hình thức là sự kết bình đẳng giới này? hợp của cả ba hình thức nói trên. • Thứ hai, cần phải xác định trong những Sau khi xác định những nguyên nhân cơ bản khoảng cách giới này thì đâu là khoảng cách gây ra khoảng cách giới cần được quan tâm, Báo vẫn còn tồn tại thậm chí khi các quốc gia trở cáo dựa trên kinh nghiệm với các can thiệp chính nên giàu có hơn? Vậy những lĩnh vực nào có sách trên một phạm vi rộng của các nước để đưa thu nhập cao hơn nhưng vấn đế bất bình ra những hướng dẫn về biện pháp can thiệp cụ đẳng lại được cải thiện không đáng kể? thể có thể mang lại hiệu quả trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Báo cáo cũng xem xét nền kinh • Thứ ba, cần xác định được trong số các khu tế chính trị cần được cải cách và nhấn mạnh việc vực được ưu tiên này, có khu vực nào chưa thiết kế và thực hiện chính sách phải hòa hợp với được quan tâm đầy đủ hoặc được quan tâm môi trường thể chế, xã hội, chính trị và văn hóa nhầm chỗ không? Vậy tái định hướng chính của các quốc gia và có sự tham gia của các nhà sách có mang lại lợi ích tốt nhất hay không? hoạt động xã hội. Sau khi áp dụng 3 tiêu chí này, chúng tôi đã đi đến kết luận rằng khi hoạch định chính sách, Các chính sách thu hẹp khoảng cách giới các nhà hoạch định cần ưu tiên nhất 4 khu vực, trong nguồn vốn nhân lực (y tế và giáo đó là: dục) Giải quyết vấn đề khoảng cách giới liên quan đến • Giảm khoảng cách giới trong các nguồn vốn nguồn vốn nhân lực – tỷ lệ tử vong phụ nữ cao ở nhân lực (giải quyết vấn đề tỷ lệ tử vong ở nữ một số độ tuổi cụ thể và những bất lợi giới trong giới quá cao và xóa bỏ các rào cản bất lợi giới vấn đề giáo dục – đòi hỏi phải cải cách các thể chế trong giáo dục – lĩnh vực vẫn còn tồn tại cung cấp dịch vụ công. Việc cung cấp các dịch vụ phân biệt giới) cơ bản cho phụ nữ mang thai một cách kịp thời • Xóa bỏ khoảng cách thu nhập và năng suất lao và cải thiện nguồn nước và vệ sinh cho các hộ động giữa nữ giới và nam giới. gia đình sẽ còn phải trải qua một chặng đường dài mới có thể xóa bỏ được khoảng cách giới liên • Thu hẹp quyền được lên tiếng giữa phụ nữ và quan đến tỷ lệ tử vong quá cao ở phụ nữ. Các nam giới dịch vụ giáo dục cần phải tập trung chú trọng vào • Hạn chế việc bất bình đẳng giới bị lặp lại qua việc nâng cao khả năng tiếp cận giáo dục của các nhiều thế hệ, cho dù đó là bất bình đẳng về nhóm dân cư có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn năng lực, cơ hội kinh tế hay vai trò. như nghèo đói, hoàn cảnh địa lý hay các nhóm dân tộc, tôn giáo, giai cấp. Việc tập trung trong Rõ ràng, không phải tất cả các lĩnh vực ưu giáo dục sẽ góp phần giải quyết “các bẫy bất bình tiên này đều được áp dụng cho tất cả các quốc đẳng giới” ảnh hưởng đến người nghèo và những gia. Những đặc điểm cụ thể của từng quốc gia sẽ người bị lãng quên trong xã hội. quyết định cách hiệu chỉnh các chính sách cho Những giải pháp này có thể xuất phát từ phía phù hợp nhất. cung hoặc phía cầu, nhưng những giải pháp này Phân tích của chúng tôi cũng nhấn mạnh không thể mơ hồ về giới. Ngược lại, các biện rằng, trong quá trình lựa chọn và thiết kế các pháp này phải chỉ ra một cách rõ ràng, cả trong chính sách, việc quan trọng là phải quan tâm tới quá trình thiết kế và thực hiện chính sách, các các yếu tố quyết định đến khoảng cách giới chứ Tổng quan 25 tác nhân gây ra bất bình đẳng giới – là nguyên này có thể tiếp tục được hỗ trợ để đạt hiệu quả nhân khiến cho khoảng cách giới trong kinh tế và cao hơn thông qua việc khuyến khích tài chính giáo dục vẫn còn tồn tại dai dẳng. Và trong quá đối với các bậc phu huynh có con gái (ví dụ như trình thiết kế và triển khai chính sách, các giải chương trình “Apni Beti Apni Dhan” ở một số pháp này cũng phải lồng ghép vào đó tiếng nói bang của Ấn Độ) và hỗ trợ các chiến dịch truyền của những đối tượng mà chính sách này hướng thông để thay đổi tư tưởng của xã hội về bình tới – bao gồm phụ nữ và những bé gái chưa bị đẳng giới. phân biệt và cả những người đàn ông và bé trai Trong thời gian sơ sinh và trong những năm sống chung với họ. đầu đời, tỷ lệ bé gái tử vong quá cao không phải là do các hộ gia đình hoặc thị trường – mặc dù Giảm tỷ lệ tử vong quá cao ở nữ giới có thể nói cả hai nhân tố này có thể làm cho vấn Các yếu tố chính có ảnh hưởng quyết định đến đề trở nên trầm trọng hơn. Nguyên nhân của tỷ lệ tử vong cao ở phụ nữ tại những độ tuổi vấn đề này là do các tổ chức không có khả năng khác nhau không có liên quan gì nhiều đến tốc cung cấp nước sạch, vệ sinh môi trường, xử lý độ tăng trưởng của các quốc gia. Những yếu tố chất thải và thoát nước. Các quốc gia có tỷ lệ này chính là kết quả của tư tưởng thiên vị giới bé gái tử vong trước sinh cao là những quốc gia trong các gia đình cũng như những thất bại của vẫn còn phải chịu nhiều gánh nặng từ những thị trường và thể chế. Những điểm đầu vào cho căn bệnh truyền nhiễm. Bằng cách nâng cao các chính sách được quyết định bởi một trong khả năng tiếp cận nguồn nước sạch và vệ sinh những ảnh hưởng này có tính ràng buộc nhất môi trường được thực hiện trong những năm trong mỗi giai đoạn. đầu thế kỷ 20, các quốc gia giàu hiện nay đã xóa Chênh lệch tỷ lệ nam nữ là một vấn đề ở một bỏ được tình trạng tử vong quá cao ở những bé số quốc gia trên thế giới, trong đó có Trung gái nhỏ tuổi. Và ở các quốc gia đang phát triển Quốc, một số khu vực ở Ấn Độ, một số khu vực như Băng-la-đét, Trung Quốc và Việt Nam cũng ở Cápcadơ và Tây Bancăng. Nguyên nhân cơ bản đã thực hiện các biện pháp tương tự, nhờ đó là quan niệm trọng nam ở các gia đình, ở một mà tỷ lệ tử vong ở bé gái trong suốt 2 thập niên số khu vực thì việc tăng trưởng thu nhập càng qua cũng giảm đi đáng kể. Vậy để những cô gái làm cho vấn đề này trở nên trầm trọng hơn. Thu từng “mất tích” ở Hạ Xahara Châu Phi “tái hội nhập cao hơn giúp người dân có nhiều khả năng nhập” vào cuộc sống, các quốc gia phải đầu tư tiếp cận các công nghệ siêu âm hỗ trợ lựa chọn phát triển các hệ thống tương tự, cung cấp đầy giới tính khi sinh. Do đó, cần phải triển khai các đủ các dịch vụ nước sạch, vệ sinh môi trường và chính sách trên cả hai mặt trận. xử lý chất thải đến toàn bộ người dân chứ không Trước tiên cần phải ban hành và thực thi pháp phải chỉ những người giàu có. Trong khi những luật nhằm đối phó với tình trạng lạm dụng công dịch vụ này sẽ mang lại lợi ích cho những đứa nghệ lựa chọn giới tính, như đã diễn ra ở Trung trẻ nhỏ, những bé gái sẽ nhận được nhiều ích Quốc và Ấn Độ. Tuy nhiên, kinh nghiệm chỉ ra lợi hơn do các loại bệnh truyền nhiễm đã giảm. rằng rất khó để thực thi pháp luật, nếu không Chính xác thì các quốc gia nên làm thế nào? muốn nói là không thể, nếu không áp dụng các Nếu xem kinh nghiệm của các quốc gia giàu có biện pháp hạn chế hà khắc- là những biện pháp hiện nay là một hướng dẫn thì một phần biện bất khả thi ở hầu hết các xã hội và làm phát sinh pháp đó là cung cấp nước sạch tại điểm sử dụng các mối quan tâm khác về đạo đức. Và việc thực thông qua hệ thống đường ống nước. Các phương thi các biện pháp hạn chế càng trở nên khó khăn án khác, như xử lý nước tại nguồn, dường như hơn do đối với nhóm người giàu có trong xã hội. kém hiệu quả hơn trong việc giảm thiểu khả Phương thức tiếp cận thứ hai có tính khả thi năng mắc bệnh tiêu chảy bởi vì có khả năng hơn là nâng cao nhận thức của hộ gia đình về giá nước sẽ bị tái ô nhiễm.56 Do đó vấn đề ở đây là trị của con gái. Mở rộng cơ hội cho phụ nữ trẻ làm sao thiết kế được một khuôn khổ thể chế tuổi, bao gồm cả những người trong thị trường giúp làm tăng khả năng tiếp cận với nguồn nước lao động, là một cách nâng cao nhận thức, và sạch một cách hiệu quả trong khi đảm bảo người cách này có thể kết hợp với quá trình phát triển nghèo vẫn có khả năng tiếp cận và chi trả cho để đảo ngược tư tưởng trọng nam. Lấy Hàn Quốc các dịch vụ này. làm một ví dụ, đây là một trong số ít các quốc gia Giải pháp này sẽ phụ thuộc vào từng hoàn đã xóa bỏ được tỷ lệ tử vong quá cao ở phụ nữ cảnh, nhưng có một vài yếu tố rất quan trọng: khi sinh trong một thời gian ngắn.55 Và quá trình 26 B Á O C Á O P HÁT T R I Ể N T H Ế G I Ớ I 2 0 1 2 • Các quy định phù hợp thừa nhận sự can thực hiện tại một số cộng đồng ở Campuchia, thiệp của chính phủ. Inđônêxia, và Việt Nam. Việc mở rộng phạm vi cung cấp nước sạch và • Một cơ cấu thích hơp bao gồm các ưu đãi vệ sinh môi trường sẽ rất tốn kém, nên các nước dành cho nhà cung cấp để họ có trách nhiệm nghèo cần có một nguồn tài trợ lớn – thường là hơn trước các nhà hoạch định chính sách các nguồn bên ngoài. Một bản phân tích gần đây • Các biện pháp nâng cao tính trách nhiệm về nhu cầu vốn phát triển cơ sở hạ tầng ở khu của cả phía các nhà cung cấp và phía các nhà vực Hạ Xahara Châu Phi đã kết luận rằng để cải hoạch định chính sách trước người sử dụng thiện được đáng kể khả năng tiếp cận nước sạch dịch vụ. và vệ sinh môi trường của người dân khu vực này thi cần phải chi thêm 150% mức độ chi hiện Tại các khu đô thị, cung cấp nước sạch đòi hỏi nay cho nước sạch và vệ sinh môi trường – tức cần chú trọng đến cải thiện cấu trúc hợp đồng ký là khoảng trên 11 tỉ Đôla Mỹ.57 Tuy nhiên, như kết, và trong một số trường hợp còn cần sự tham những thông tin đã được đề cập trong chương 3, gia nhiều hơn nữa của khu vực tư nhân. Tại Ma- lợi nhuận của các khoản đầu tư có tính đến yếu nila, những cải cách này cũng đã mang lại những tố tỷ lệ tử vong giảm là rất lớn. tác động rất lớn: tổng dân số được sử dụng nước Trong độ tuổi sinh đẻ, tỷ lệ tử vong ở bà mẹ sạch tăng từ 67% năm 1997 lên 99% năm 2009, ở khu vực Hạ Xahara Châu Phi và một số nơi và cũng đã mang lại những hiệu quả nhất định thuộc khu vực châu Á vẫn còn duy trì ở mức rất như lượng nước thất thoát thấp hơn cũng như cao. Nguyên nhân chính là do các tổ chức không giảm chi phí vận hành. Ở những nơi người dân cung cấp được các dịch vụ chăm sóc y tế cho có thu nhập thấp, các lựa chọn tài chính và năng những phụ nữ mang thai. Trong khi các chuẩn lực của các tổ chức công cộng vẫn còn nhiều mực xã hội không cho phép người phụ nữ nhận hạn chế, thì việc cung cấp các dịch vụ theo số được những dịch vụ hỗ trợ y tế kịp thời khi sinh lượng nhỏ, dựa vào các nhà cung cấp độc lập và con, thì việc sinh nhiều con cũng có thể là một tìm cách khiến các nhà cung cấp có tính trách nguyên nhân ở một số khu vực. Giải quyết vấn nhiệm hơn trước người sử dụng lại là một biện đề này, cũng tương tự như đối với việc cung cấp pháp hữu hiệu, thậm chí ở cả các khu đô thị nhỏ nước sạch và vệ sinh môi trường, đòi hỏi phải sửa - đây là con đường mà Campuchia đã đi theo. Tại đổi các tổ chức cung cấp các dịch vụ này. khu vực nông thôn, chính quyền địa phương có Việc sửa đổi này đòi hỏi phải cung cấp thêm thể cải thiện những hệ thống cộng đồng, ví dụ nguồn lực cho các nhà cung cấp dịch vụ tiền tuyến như Uganda đã cải thiện các hệ thống cộng đồng và đảm bảo rằng toàn bộ hệ thống chăm sóc sức bằng cách thu một khoản thuế bổ sung nhỏ và từ khỏa bà mẹ hoạt động hiệu quả: số tiền thuế thu được thành lập một quỹ do hội Trước tiên, chất lượng nhóm cung cấp chuỗi đồng huyện quản lý để chi trả cho các công việc dịch vụ cần được nâng cấp. Trong khi các nhóm tu sửa lớn hệ thống cấp nước. này cần có thêm những công nhân có sức khỏe, Về vấn đề vệ sinh ở khu vực thành thị, luôn đặc biệt là những người có tay nghề, thì thông luôn có đủ nhu cầu về các hạng mục cần cải qua việc thu hút sự tham gia của các nhà cung thiện, miễn là các cá nhân và cộng đồng có thể cấp cấp cộng đồng và khu vực tư nhân quy mô nắm bắt được lợi ích từ việc đầu tư vào các cơ cung cấp các dịch vụ này có thể được mở rộng cả sở vật chất này. Vì vậy, giải pháp ở đây là tăng sang những khu vực chưa được cung cấp đầy đủ. cường quyền sở hữu và công nhận các khu định Thứ hai, những người cung cấp dịch vụ chăm cư không chính thức, nhờ đó kích thích cầu sóc sức khỏe bà mẹ phải chú tâm nhiều hơn đến trong khi vẫn bảo đảm các cộng đồng được tiếp những phụ nữ đang mang thai. Một giải pháp xúc với các nhà cung cấp độc lập. Ở các khu vực cho vấn đề này là làm cho các nhà cung cấp dịch nông thôn và những khu vực thành thị có mật độ vụ có trách nhiệm hơn đối với những đối tượng dân số thấp hơn, vấn đề ưu tiên trong cải thiện này. Thu thập thông tin cho người dùng - ví dụ, vệ sinh môi trường là thay đổi hành vi, nâng cao thông tin về các tiêu chuẩn dịch vụ, chất lượng nhận thức và thúc đẩy cầu, thông qua các chiến dịch vụ và chính sách cải thiện dịch vụ - có thể sẽ dịch tuyên truyền áp lực đồng đẳng cộng đồng rất hữu ích nhưng vẫn cần phải được kết hợp với và tuyên truyền thông tin, kêu gọi ý thức trách một số phương thức mà theo đó người sử dụng nhiệm cộng đồng của người dân như đã được có thể hành động dựa trên thông tin được cung Tổng quan 27 cấp. Tại Uganda, mô hình giám sát dựa vào cộng mạnh vai trò cải cách thể chế, đáp ứng nhu cầu đồng đã cải thiện được cả mặt chất và lượng của của khách hàng, và tập trung vào các vùng chưa các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu.58 Một được hưởng đầy đủ các dịch vụ. Ngân sách phân phương thức khác để nâng cao tính trách nhiệm bổ vào các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu và là đảm bảo công dân có khả năng buộc những đại phòng chống dịch bệnh ở các khu vực chưa được diện chính trị của họ chịu trách nhiệm về những hưởng đầy đủ các dịch vụ đã tăng 58%, ở các khu thất bại này; về phần các chính trị gia cần kiểm vực vùng sâu vùng xa đã có xe cứu thương, lực soát các nhà cung cấp dịch vụ một cách hiệu quả lượng lao động trong lĩnh vực y tế đã được phân hơn nữa. Ảnh hưởng của cơ chế này được thể phối lại để các vùng nghèo được tiếp cận tốt hơn hiện rõ nét ở Pê-ru, nơi mà việc cải thiện sức với các dịch vụ y tế, và những khoản trợ cấp tiền khỏe bà mẹ đòi hỏi phải mở rộng được phạm mặt có điều kiện đã khuyến khích phụ nữ mang vi cung cấp dịch vụ, dành cho các nhà cung cấp thai đi đến các bệnh viện trước sinh và sinh đẻ tại dịch vụ những ưu đãi thích hợp, và công dân có các bệnh viện công. Tính đến năm 2009, tỷ lệ tử quyền lên tiếng để các nhà hoạch địch chính sách vong ở bà mẹ đã giảm xuống còn 19,8%.62 phải lắng nghe và xem xét.59 Năm 2000 tỷ lệ các ca sinh đẻ nhận được dịch vụ y tế là 58%, năm 2004 con số này đã tăng lên 71%. Giảm Hộp 5  tỷ lệ tử vong ở bà mẹ – đâu là phương thức Thứ ba, những khó khăn tài chính mà phụ nữ nghèo phải đối mặt khi sử dụng các dịch vụ hiệu quả? chăm sóc sức khỏe cũng cần phải được quan tâm Hãy xem xét trường hợp của Malaixia và Xri Lanka đặc biệt. Một cách để hỗ trợ những đối tượng này là chuyển tiền cho họ với điều kiện họ đang Mặc dù việc nâng cao hiệu quả cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ tìm kiếm các dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ. có rất nhiều khó khăn, nhưng nó vẫn có thể thực hiện được – thậm chí ngay ở Một ví dụ của phương thức hỗ trợ này chính là các nước có thu nhập tương đối thấp như Xri Lanka và Malaixia. Trong những năm 30 của thế kỷ 20, tỷ lệ tử vong ở bà mẹ là 2.000 người trên 100.000 ca sinh chương trình Janani Suraksha Yojana ở Ấn Độ, đẻ, đến năm 1947, tỷ lệ tử vong ở bà mẹ ở Xri Lanka đã giảm xuống còn 1.000, và trong đó những khoản hỗ trợ này đã góp phần trong 3 năm tiếp theo tỷ lệ này đã giảm một nửa xuống mức dưới 500 trường tăng tỷ lệ người sử dụng các dịch vụ được trợ cấp hợp. Vào năm 1996, con số này đã giảm xuống chỉ còn 24 trên 100.000 ca sinh đẻ. thực hiện bởi một nhân viên có tay nghề lên mức Tại Malaysia, từ mức 534 bà mẹ tử vong trên 100.000 ca sinh, tỷ lệ này đã giảm đi 36%.60 một nửa trong thời gian 7 năm từ 1950 đến 1957. Và lúc đó, với tốc độ giảm ½ Thứ tư, những nỗ lực giảm tỷ lệ tử vong hoặc hơn mỗi thập kỷ, năm 1997, tỷ lệ này chỉ còn là 19 trên 100.000. ở bà mẹ không chỉ đơn thuần là những nỗ lực Để vượt qua hàng loạt các trở ngại về mặt thể chế cản trở các hoạt động hiệu quả của các hệ thống y tế, Xri Lanka và Malaixia đã thông qua các phương cải thiện các hệ thống và dịch vụ y tế và các nỗ pháp tiếp cận tích hợp được phân chia theo từng giai đoạn. Và từ những năm lực này phải được thực hiện ở các lĩnh vực khác 50 của thế kỷ 20, họ đã thực hiện phương thức này với tổng mức chi phí công nhau. Điều này đã được minh chứng bằng những khiêm tốn nhất dành cho lĩnh vực y tế – trung bình 1,8% tổng sản phẩm quốc thành công mà Malaixia và Xri Lanka đã đạt được nội. Các chương trình y tế ở hai quốc gia này đã khai thác được sự tương tác trong quá trình giải quyết vấn đề tử vong ở bà mẹ giữa việc chăm sóc sức khỏe với nền giáo dục cơ bản, nước sạch và vệ sinh môi ngay trong thời kỳ đầu phát triển đất nước (Hộp trường, kiểm soát bệnh sốt rét, và phát triển nông thôn tổng hợp – bao gồm cả 5). Các khoản đầu tư nhỏ trong lĩnh vực cơ sở hạ việc xây dựng các tuyến đường giao thông nông thôn, giúp ứng phó với các trường hợp sản khoa khẩn cấp. Các rào cản chăm sóc sức khỏe bà mẹ về mặt tài tầng (đường giao thông nông thôn) và trong giáo chính, địa lý và văn hóa đã được xử lý bằng cách đảm bảo một đội ngũ những dục cho nữ giới, cùng với các hoạt động đào tạo nữ hộ sinh chuyên nghiệp, thạo việc có mặt ở nhiều khu vực nông thôn, cho họ các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà một nguồn cung dược phẩm và trang thiết bị y tế ổn định, liên kết họ với các mẹ và xây dựng các bệnh viện đã góp phần làm dịch vụ hỗ trợ, và cải thiện truyền thông và vận chuyển. Đồng thời, các trang giảm đáng kể tỷ lệ tử vong ở bà mẹ.61 thiết bị cũng đã được tăng cường để cung cấp các dịch vụ chăm sóc sản phụ và Thứ năm, điều quan trọng là cần phải xây ứng phó với các biến chứng. Việc quản lý tổ chức tốt hơn đã cải thiện được khả dựng một bản tóm lược chính trị về vấn đề. Thổ năng giám sát và tính trách nhiệm của nhà cung cấp. Dữ liệu về tỷ lệ tử vong cụ thể của từng khu vực được cung cấp thông qua các hệ thống giám sát để các Nhĩ Kỳ là một minh chứng chứng minh tính cộng đồng được trao quyền có thể bắt buộc những nhà lãnh đạo chính trị phải khả thi của việc xây dựng bản tóm lược này. Tỷ chịu trách nhiệm, và các nhà hành động cấp quốc gia và dưới cấp quốc gia lệ tử vong ở bà mẹ ở Thỗ Nhĩ Kỳ năm 2000 là buộc phải thừa nhận khả năng không thể chấp nhận trong mọi trường hợp tử 70 trên tổng số 100.000 ca sinh sống. Một chính vong ở bà mẹ. Cuối cùng, cả hai quốc gia này đều cam kết mạnh mẽ sẽ cải thiện phủ mới đã cấp vốn hỗ trợ chính trị, hành động được các điều kiện cho nữ giới: Nữ giới có quyền bầu cử trước hoặc ngay sau khi này đã giúp chính phủ đó củng cố được quyền quốc gia được độc lập, và vấn đề giáo dục cho nữ giới được đặc biệt quan tâm. lực và vào năm 2003, chính phủ này đã triển khai một Chương trình chuyển dịch y tế, nhấn Nguồn:Pathmanathan và cộng sự 2003. 28 B Á O C Á O P HÁT T R I Ể N T H Ế G I Ớ I 2 0 1 2 Đưa giáo dục đến với những người dân đặc được trả lương thấp hơn. Những khác biệt này biệt khó khăn vẫn sẽ còn tồn tại ngay cả khi các quốc gia trở Ngay cả khi khoảng cách giới trong tuyển sinh nên giàu có hơn. giáo dục đã được thu nhỏ trên phạm vi toàn Có ba yếu tố ảnh hưởng tới các mô hình này. quốc, thì khoảng cách này vẫn còn tồn tại trong Nhân tố đầu tiên chính là việc nam giới và nữ nhóm dân số nghèo và nhóm dân số có những giới có những trách nhiệm khác nhau đối với việc hoàn cảnh khó khăn khác nhau – nhóm dân số chăm sóc gia đình và làm việc nhà, do đó, nam ở khu vực vùng sâu vùng xa, nhóm dân tộc, giai giới và nữ giới có mô hình sử dụng thời gian khác cấp hay nhóm người khuyết tật. Để tiếp cận được nhau, điều này có tác động trực tiếp đến cách lựa các nhóm đối tượng này, những nhà hoạch định chọn công việc và hoạt động kinh tế của cả hai chính sách có thể xây dựng chính sách dựa trên giới. Thứ hai, phụ nữ và nam giới có khả năng những kinh nghiệm và bằng chứng có được từ tiếp cận các yếu tố đầu vào sản xuất khác nhau, Campuchia, Cô-lôm-bia, Hondarus, Mê-hi-cô, và nhận được những sự đối xử khác nhau từ phía Nicaragoa, Pakixtanvà Thổ Nhĩ Kỳ. Một loạt các các thị trường và thể chế. Thứ ba, những hạn chế lựa chọn bao gồm các biện pháp khắc phục hậu tương hỗ này có thể tạo ra một “cái bẫy năng suất quả cho cả phía cung (chẳng hạn như xây dựng lao động của nữ giới”. Do đó cần xây dựng các nhiều trường học hơn nữa ở các khu vực vùng sâu chính sách nhắm tới các yêu tố cơ bản này. Do có vùng xa và tuyển dụng giáo viên địa phương) và thể nhiều nhân tố sẽ cùng gây ảnh hưởng thưởng phía cầu (như trợ cấp tiền mặt có điều kiện để hỗ xuyên hơn, nên các biện pháp can thiệp hiệu quả trợ trẻ em gái có thể đến trường). Nhân tố then bằng chính sách cần phải nhắm tới nhiều nhân chốt trong việc thiết kế các biện pháp can thiệp tố - hoặc đồng thời hoặc theo thứ tự. có hiệu suất về phí tổn chính là tính sẵn có và phí tổn cho việc thu thập thông tin về các đặc Giải phóng thời gian cho phụ nữ điểm và điều kiện của địa phương. Ở những khu Sự phân biệt giới trong việc tiếp cận các cơ hội về vực ít được biết đến, các chính sách được điều kinh tế bị ảnh hưởng một phần bởi sự khác biệt chỉnh theo điều kiện từng địa phương, ví dụ như trong thời gian sử dụng là kết quả của tiêu chí đã trợ cấp với điều kiện trẻ em gái phải được đến ăn sâu trong việc phân bố trách nhiệm chăm sóc trường, có thể có tác dụng thu hẹp bình đẳng trợ gia đình và làm việc nhà. Giải quyết các tiêu chí cấp tiền mặt này đã có những tác động tích cực ràng buộc này và giải phóng thời gian cho phụ đến việc tuyển sinh trong cả khu vực có thu nhập nữ nghĩa là quan tâm hơn đến 3 loại chính sách trung bình và khu vực có thu nhập thấp hơn, đặc sau: chính sách chăm sóc trẻ em và nghỉ phép của biệt là tăng lượng tuyển sinh giữa các nhóm đối cha mẹ; cải thiện các dịch vụ cơ sở hạ tầng; và các tượng có lượng học sinh theo học thấp (ví dụ chính sách giảm thiểu chi phí giao dịch liên quan như các nhóm dân số có hoàn cảnh đặc biệt khó đến việc tiếp cận thị trường. khăn).63 Nếu được chấp nhận rộng rãi về mặt Các chính sách như trợ cấp hoặc cung cấp công chính trị dựa trên chính hiệu quả mang lại, thì cộng về việc chăm sóc trẻ em có thể bù đắp cho các chính sách như thế này sẽ được triển khai tại phụ nữ các chi phí họ phải gánh chịu trong gia hơn 30 quốc gia. đình bằng việc tham gia công việc ngoài xã hội. Chăm sóc trẻ em có thể được nhà nước cung cấp Các chính sách cải thiện cơ hội kinh tế cho trực tiếp (bao gồm các chính quyền địa phương) phụ nữ hoặc thông qua khu vực tư nhân, có thể trợ cấp Trên thế giới, phụ nữ và nam giới có những cộng đồng và các quy định chung. Ở các nước phương thức tiếp cận các cơ hội kinh tế khác đang phát triển, chính sách chăm sóc trẻ em nhau cơ bản - cho dù đó có là công việc làm công đã đang được sử dụng tại một số nước Châu ăn lương, làm nông nghiệp, hoặc làm chủ doanh Mỹ Latinh có thu nhập trung bình. Ví dụ như nghiệp. Phụ nữ có xu hướng làm việc tại những cung cấp dịch vụ công hoặc trợ cấp việc chăm không gian kinh tế khác nam giới, và chủ yếu sóc ban ngày như tại Estancias Infantiles Mê-xi- tập trung trong những hoạt động có năng suất cô, Hogares Comunitarios ở Cô-lôm-bia, và các lao động thấp hơn, làm các công việc tự do và chương trình tương tự ở Achentina và Bra-xin. tập trung trong khu vực tiền lương không chính Bằng chứng từ các nước này cũng như các nước thức. Ngay cả trong khu vực tiền lương chính giàu (chủ yếu là ở miền Bắc và miền Tây châu thức, phụ nữ cũng tập trung trong một số ngành Âu) có kế hoạch tương tự là làm tăng số giờ làm nghề nhất định, thường là những ngành nghề việc của phụ nữ cũng như cho họ làm việc nhiều Tổng quan 29 hơn trong công việc chính. Ở các nước có thu thời gian giải trí, cũng nâng cao phúc lợi cho nhập thấp, giải pháp cho chăm sóc trẻ đặc biệt phụ nữ (Chương 7). cần thiết cho phụ nữ làm việc trong khu vực Những can thiệp cũng có thể tập trung vào việc phi chính thức và phụ nữ ở vùng nông thôn. Tại giảm (thời gian) chi phí giao dịch liên quan đến Ấn Độ, tổ chức phi chính phủ (NGO) Mô hình việc tiếp cận các thị trường. Những lựa chọn về Nhà Trẻ Di động đang thử nghiệm các mô hình giao thông vận tải tốt hơn và hiệu quả hơn cũng khác nhau về cung cấp các dịch vụ chăm sóc trẻ làm giảm chi phí thời gian liên quan đến đi làm em cho phụ nữ làm việc ở khu vực không chính việc bên ngoài, làm cho việc quán xuyến việc nhà, thức ở nông thôn và trong các chương trình chăm sóc con cái và công việc ngoài xã hội dễ công cộng. Những nỗ lực tương tự đã được triển dàng hơn. Bên cạnh đó, công nghệ thông tin và khai trong tiểu bang Gujarat của Ấn Độ do Hiệp truyền thông cũng giúp rút ngắn về mặt thời gian hội Phụ nữ Tự Làm việc thành lập các trung tâm và việc đi lại mà phụ nữ phải đối mặt trong việc chăm sóc trẻ ban ngày dành cho trẻ em từ 0 đến tiếp cận và tham gia vào thị trường lao động. Các 6 tuổi của các thành viên trong Hiệp hội. Những chương trình ngân hàng di động như M-PESA ở lựa chọn khác cho việc cung cấp việc chăm sóc Kenya, cho phép phụ nữ tiếp cận quá trình giao trẻ cộng đồng là kéo dài thời gian học ở trường dịch ngân hàng và giao dịch tài chính nhỏ hiệu (đặc biệt là ở các cấp chỉ học một nửa ngày) hoặc quả hơn và thúc đẩy tiết kiệm. Việc này mang lại cho trẻ em nhập học ở độ tuổi nhỏ hơn. lợi ích đặc biệt cho những doanh nghiệp nhỏ. Ở Các chính sách nghỉ phép của cha mẹ được Ấn Độ, một chương trình được điều hành bởi thử nghiệm chủ yếu ở các nước giàu - tiêu biểu NGO, Quỹ Phát triển nghề nghiệp, đã tổ chức các là hình thức nghỉ phép thai sản. Trong khi các nhóm phụ nữ tập trung vào việc tiếp thị, cung chính sách này tăng sự tham gia vào lực lượng lao cấp cho họ cách tiếp cận với điện thoại di động và động của phụ nữ ở những nước này, thì khả năng internet, vì thế giúp họ đưa sản phẩm của họ vào áp dụng chúng tại những nước đang phát triển thị trường một cách trực tiếp và tăng thu nhập.64 có thể bị hạn chế hơn. Đầu tiên là các chính sách này chỉ có thể được sử dụng trong thị trường Xóa bỏ khoảng cách trong việc tiếp cận với lao động chính thức, mà thường chỉ chiếm một các tài sản và các nguồn lực đầu vào phần nhỏ thị trường việc làm tại những nền kinh Những nông dân nữ và nữ doanh nhân ít có khả tế mới nổi và thu nhập thấp. Thứ hai là những năng tiếp cận với những tài sản và nguồn vốn chính sách này có thể làm cho việc sử dụng lao đầu vào hơn so với nam giới. Tương tự, nhu cầu động nữ ở độ tuổi chăm sóc trẻ ít hấp dẫn trừ sử dụng tín dụng trong số các nữ nông dân và khi chế độ nghỉ thai sản được tài trợ công. Các doanh nhân thấp hơn là ở nam giới. Những sự chính sách cung cấp cho cả cha mẹ và nghỉ thai khác nhau này bắt nguồn từ những thất bại về sản và được thực hiện bắt buộc trước đây (Như thị trường và các tổ chức và trong tương tác của ở Ai-len, Na Uy và Thụy Điển) đã tận dụng được họ với những phản ứng của gia đình. Ví dụ như lợi thế của việc không được có thành kiến đối với việc tiếp cận tín dụng thường đòi hỏi tài sản thế phụ nữ đồng thời giúp thay đổi các tiêu chí cơ chấp, nhất là đất hoặc bất động sản. Như vậy phụ bản về việc chăm sóc. Tuy nhiên, cách tiếp cận nữ sẽ gặp bất lợi vì họ có ít và thấp hơn quyền này có thể vượt quá khả năng tài chính của của sở hữu tài sản đất đai và chủ yếu làm trong lĩnh nhiều nền kinh tế đang phát triển. vực dịch vụ có vốn hóa thấp và đầu ra thường Cải thiện các dịch vụ cơ sở hạ tầng – đặc biệt là vô hình. Những yếu tố này có thể bị tác động là điện nước – có thể giúp miễn phí về thời nghiêm trọng hơn bởi những quan niệm thiên vị gian của phụ nữ trong việc chăm sóc con cái giới trong gia đình, dẫn đến sự phân bổ nguồn và gia đình. Ví dụ như điện khí hóa ở vùng không đồng đều (ví dụ như về đất) cho các thành nông thôn Nam Phi đã làm tăng sự tham gia viên nam và nữ trong gia đình. vào lực lượng lao động của phụ nữ khoảng 9%; Những chính sách cần phải tập trung vào Ở Băng-la-đét, chính sách này cũng làm tăng những yếu tố cơ bản quyết định sự tiếp cận khác thời gian giải trí cho phụ nữ nhiều hơn. Ở Pa- nhau – xóa bỏ chênh lệch, đóng vai trò trong kis-tan, việc đưa nguồn nước gần nhà dân có việc tăng cường các quyền sở hữu của phụ nữ, liên quan đến việc tăng thời gian phân bổ cho điều chỉnh những định kiến trong các tổ chức thị trường lao động. Các nghiên cứu khác cho cung cấp dịch vụ, và nâng cao hoạt động của thị thấy không có tác động trên thị trường công trường tín dụng. việc nhưng những tác động đáng chú ý đến 30 B Á O C Á O P HÁT T R I Ể N T H Ế G I Ớ I 2 0 1 2 Tăng cường quyền sở hữu và quyền về đất đai những vấn đề được nhìn nhận rõ ràng. Cuối có thể giúp nông dân và những doanh nhân nữ. cùng là, những người sử dụng lao động nữ phải Một hạn chế chủ yếu cần được giải quyết chính được cung cấp thông tin về mức độ dịch vụ. là hạn chế khả năng của phụ nữ trong việc sở Cải thiện chức năng của thị trường tín dụng hữu và thừa kế tài sản và kiểm soát các nguồn bằng cách giải quyết những vấn đề về thông tin tài nguyên. Kinh nghiệm từ Ấn Độ và Mê-xi-cô tạo nên do thiếu kinh nghiệm của những người cho thấy việc cân bằng những quy định của pháp đi thuê phụ nữ có thể giúp giải quyết chỗ trống luật về thừa kế giữa phụ nữ và nam giới làm tăng về sản xuất giữa phụ nữ và nam giới trong nông quyền sở hữu tài sản cho phụ nữ. Luật về đất đai nghiệp và kinh doanh. Các chương trình tín dụng có sự phân biệt đối xử, mà nguyên nhân sâu xa vi mô đã được phổ biến trong giải quyết các vấn nằm ở gốc rễ của những cách biệt về năng xuất đề, bằng cách giúp phụ nữ tiếp cận tín dụng quy sản xuất nông nghiệp tại nhiều nước, cũng cần mô nhỏ và xây dựng chương trình lãi suất cho được cải cách, ít nhất là về sở hữu chung trong vay. Đặc biệt, những chương trình này có hình hôn nhân, làm tăng khả năng của phụ nữ trong thức của các đề án cho vay theo nhóm, ví dụ như việc sử dụng đất đai để tiếp cận những cơ hội Ngân hàng Grameen ở Bănglađétvà FINCA ở Pê- làm kinh tế. Thậm chí cách tốt hơn để đảm bảo ru. Tín dụng vi mô đã phát triển vượt ra ngoài quyền sử dụng đất của phụ nữ đã kết hôn (đặc nhóm cho vay đối với những đề án như Bancl biệt là những trường hợp đã ly hôn hoặc chồng Sol ở Bolovia và Ngân hàng Rakyat Inđônêxia đã chết) bắt buộc phải có tên tham gia sở hữu đất cho cá nhân vay lớn hơn và dựa vào trả nợ ưu đai chung của vợ chồng. Ở hai vùng ở Êtiôpia, đãi hơn là giám sát chéo. Thiếu tiếp cận với tín nơi có xác nhận quyền sử dụng đất đai liên quan dụng có thể được khắc phục thông qua đổi mới đến việc thông báo 2 chủ sở hữu đối với cả vợ và tài chính và bằng cách thích ứng với mô hình chồng, thì tên của người phụ nữ sẽ chiếm hơn tín dụng đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp 80% quyền sử dụng đất đai đó, nhiều hơn 4 lần nhỏ, như là Access Bank ở Ni-giê-ria, DFCU ở 20% so với vùng có chứng nhận sử dụng đất đã U-gan-đa. Và Sero Lease và Finance ở Ta-za-nia được ban hành với người duy nhất đứng tên là đã thực hiện. Nhận ra rằng phụ nữ ít có khả năng chủ hộ.65 thiết lập hồ sơ tín dụng hơn nam giới, và những Việc xóa bỏ những định kiến trong các tổ chức căn cứ tài sản thấp hơn dựa vào đó có thể rút ra cung cấp dịch vụ như các hoạt động phân bổ đất tài sản thế chấp, những ngân hàng thương mại nhà nước và các đề án đăng ký và các cơ quan mở lớn này hợp tác với Sở Tài chính quốc tế để phát rộng phát triển nông nghiệp có thể cải thiện sự triển các công cụ mới để hỗ trợ và mở rộng các tiếp cận những cơ hội làm kinh tế của phụ nữ ở dịch vụ tín dụng đối với các doanh nghiệp sở nhiều quốc gia. Khắc phục những định kiến đó hữu lao động nữ và các doanh nhân nữ. Các can đòi hỏi phải hành động trên nhiều phương diện. thiệp bao gồm phát triển sản phẩm mới như các Trước tiên, các nhà cung cấp dịch vụ cần đặt mục khoản cho vay được thế chấp cùng với các thiết tiêu rõ ràng và bổ sung thêm nhiều dịch vụ cho bị hoặc dựa trên dòng tiền cũng như việc đào tạo phụ nữ. Ví dụ như các chương trình phân bổ lại nhân lực của các tổ chức tài chính và chiến lược đất đai là mục tiêu hàng đầu trong gia đình. Thay hỗ trợ các ngân hàng tăng số lượng khách hàng vào đó, chính phủ có thể thực thi quy định bắt nữ. Những kinh nghiệm ban đầu với những can buộc phải đứng tên chung quyền sở hữu cho cả thiệp cho thấy sự gia tăng cổ phần của các khách người phụ nữ trong gia đình cùng với các chính hàng nữ đang dùng các dịch vụ tài chính và vay sách nhạy cảm hơn cho phụ nữ và cho phép tỷ vốn lớn hơn với việc trả nợ cũng tốt hơn mức lệ phụ nữ tham gia nhiều hơn vào các ban quản trung bình (Chương 7). lý cơ sở. Thứ hai, người phụ nữ có thể được trao nhiều quyền hơn trong việc tổ chức phân phối Xóa bỏ phân biệt đối xử giới trên thị trường dịch vụ, bao gồm việc sắp xếp thứ tự ưu tiên các lao động dịch vụ được cung cấp. Ví dụ như đối với việc Trên thị trường lao động, tỷ lệ lao động nữ tham mở rộng phát triển nông nghiệp, phụ nữ có thể gia vào một số ngành nghề thấp có thể là nguyên làm ở vị trí ra quyết định trong Bộ Nông nghiệp. nhân hình thành nên quan niệm phân biệt đối xử Thứ ba, công nghệ có thể được sử dụng để mở giới của người thuê lao động (hoặc khiến những rộng tầm của các dịch vụ. Điều này đã được thực quan niệm phân biệt đối xử vốn đã tồn tại trở nên hiện ở Kenya cho chính sách khuyến nông. Thứ sâu sắc hơn) rằng phụ nữ không phù hợp hoặc tư, việc giám sát được cải thiện có thể làm cho không phải là ứng viên tốt để tuyển dụng. Bên Tổng quan 31 hỘP 6  Tăng tỷ lệ nữ giới tham gia lực lượng lao động tại Gioóc-đa-ni Mặc dù trình độ giáo dục ngày càng được cải thiện, trình thí điểm này, các sinh viên đã được hướng tỷ lệ nữ giới tham gia vào lực lượng lao động ở khu dẫn về những kỹ năng xây dựng nhóm công tác, vực Trung Đông và Bắc Phi vẫn còn rất thấp. Tại kỹ năng giao dịch, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng Gioóc-đa-ni, số phụ nữ từ 20 đến 45 tuổi chỉ chiếm viết thương mại, kỹ năng dịch vụ khách hàng, viết 17% lực lượng lao động, trong khi đó nam giới hồ sơ cá nhân, phỏng vấn và suy nghĩ tích cực chiếm tới 77%. Khoảng cách về tỷ lệ tham gia lực trong vòng 45 giờ. lượng lao động này cũng xảy ra trong nhóm người Có vẻ nhu cầu về những chính sách này rất lớn. có trình độ giáo dục cao hơn; trong những nhóm Mặc dù tỷ lệ có việc làm thấp, nhưng đa số nữ sinh người tốt nghiệp đại học cộng đồng, khoảng cách viên mới ra trường hiện nay mong muốn được làm này bắt đầu xuất hiện ngay từ khi họ tốt nghiệp. Tỷ việc: 93% cho biết họ dự định đi làm sau khi tốt lệ nữ giới tham gia lực lượng lao động thấp đã làm nghiệp, và 91% cho biết họ vẫn muốn được đi làm cho sinh viên mới tốt nghiệp gặp nhiều khó khăn sau khi họ kết hôn. Trong số những người tham gia khi tìm kiếm cơ hội gia nhập thị trường lao động. các khóa đào tạo, 62% hoàn thành khóa học, những Việc có quá ít phụ nữ tham gia vào lực lượng lao phụ nữ chưa lập gia đình có nhiều khả năng tham động làm cho những cô gái trẻ thiếu tấm gương để gia các khóa đào tạo hơn. Những người tham gia noi theo cũng như làm cho những kết nối mạng khóa học đã có những nhận xét tích cực, họ nói rằng lưới gặp khó khăn khi giúp những cô gái này tìm khóa học đã làm cho họ tự tin hơn để bắt đầu tìm được việc làm. Những người sử dụng lao động, có ít kiếm công việc. Trong 4 tháng thực hiện chương kinh ngiệm làm việc với nữ giới, khó có thể thuê lao trình trợ cấp lương, đã có khoảng 1/3 phụ nữ sử động nữ bởi họ tin phụ nữ ít có khả năng làm việc dụng biên nhận tìm được việc làm. lâu dài. Những kết quả đánh giá ban đầu giữa thời kỳ Chương trình Cơ hội mới cho nữ giới tại Gioóc- thực hiện đã cho thấy rằng những giấy biên nhận đa-ni (Gioóc-đa-niNOW) là một chương trình thí việc làm đã có những tác động to lớn đến vấn đề điểm nhằm đánh giá chính xác hiệu quả của hai việc làm: tỷ lệ đi làm ở nhóm sinh viên mới tốt chính sách: phụ cấp lương trong ngắn hạn, và đào nghiệp có giấy biên nhận phụ cấp lương và giấy tạo kỹ năng làm việc. biên nhận phụ cấp lương cộng với tham gia khóa Chính sách phụ cấp lương ngắn hạn khuyến đào tạo đã tăng lên khoảng 55 đến 57 %, trong đó khích các công ty nhân cơ hội này thuê nữ sinh trẻ tỷ lệ có việc làm ở nhóm sinh viên mới tốt nghiệp mới tốt nghiệp và tạo cơ hội cho các công ty vượt chỉ được tham gia khóa đào tạo hoặc vừa không qua những khuôn mẫu ban đầu thông qua việc tham gia khóa đào tạo vừa không có giấy biên trực tiếp quan sát những phụ nữ trẻ tuổi làm việc nhân phụ cấp lương là 17 đến 19%. Trong tất cả các cho họ. Các khoản trợ cấp này cũng có thể giúp nhóm, thì nhóm phụ nữ chưa lập gia đình có hiệu những cô gái trẻ tự tin tìm kiếm công việc và tiếp ứng việc làm cao hơn. Trao quyền tài chính (được cận người sử dụng lao động hơn. Trong chương đo bằng tỷ lệ nữ giới có tiền riêng và có thể quyết trình thí điểm này, mỗi biên nhận có giá trị tương định sử dụng khoản tiền đó như thế nào) cũng đương với mức tiền lương tối thiểu trong 6 tháng. tăng đáng kể trong nhóm phụ nữ nhận được biên Chính sách đào tạo những kỹ năng làm việc có nhận phụ cấp lương hoặc tham gia khóa đào tạo tác dụng tăng cường các kỹ năng kỹ thuật mà sinh hoặc cả hai. Các cuộc khảo sát tiếp theo cũng sẽ viên mới tốt nghiệp học được ở trường đại học với tiếp tục điều tra mối liên hệ giữa hôn nhân và công các kỹ năng thực hành để giúp họ tìm được việc và việc, trên cơ sở những phát hiện rằng phụ nữ đã thành công trong công việc. Nhiều người sử dụng lập gia đình ít có khả năng tham gia các khóa đào lao động cho biết những sinh viên mới tốt nghiệp tạo, ít có khả năng sử dụng giấy biên nhận phụ cấp hiện nay vẫn còn thiếu các kỹ năng giao tiếp và lương và cũng ít có khả năng được nhận vào làm các kỹ năng làm việc cơ bản khác. Trong chương việc. Nguồn: Nhóm tác giả BCPTTG 2012. cạnh đó, những mạng lưới tìm kiếm công việc thông qua ba loại chính sách chính: các chính hay thăng tiến nghề nghiệp (thường phân biệt sách thị trường lao động năng động, các chương giới) phổ biến trên thị trường lao động lại càng trình hành động kiên quyết, và hình thành các khẳng định thêm quan niệm rằng phụ nữ không nhóm làm việc và can thiệp tư vấn định hướng. phù hợp cho một số công việc, vị trí, ngành nghề. Các chính sách thị trường lao động năng động Giải quyết vấn đề thông tin đồng thời mở rộng bao gồm đào tạo, giới thiệu việc làm và các hình những mạng lưới này có thể được thực hiện thức hỗ trợ khác nhằm giúp phụ nữ có cơ hội 32 B Á O C Á O P HÁT T R I Ể N T H Ế G I Ớ I 2 0 1 2 tham gia hoặc tái tham gia vào lực lượng lao lao động, công nhân và doanh nhân nữ. Những động. Mặc dù các chính sách này không thường phương pháp can thiệp như trên sẽ có hiệu quả được đẩy mạnh đối với mục tiêu thu hẹp khoảng nhất khi kết hợp xây dựng mạng lưới và vốn xã cách thu nhập giữa các giới, tuy nhiên những kết hội với thực hiện đào tạo, thông tin và tư vấn quả triển khai tại Áchentina, Colobia và Pêru cho định hướng. Một ví dụ là chương trình Cơ hội thấy các chính sách này có thể tăng việc làm và mới cho nữ giới (NOW) tại Gioóc-đa-ni như thu nhập của phụ nữ tại khu vực chính thức vì trình bày tại Hộp 6. Một ví dụ khác và rõ ràng với chính sách này, phụ nữ có cơ hội thể hiện khả hơn đó là Hiệp hội các phụ nữ tự doanh tại Ấn năng của mình với người thuê lao động tốt hơn. độ, hiệp hội này sau đó đã phát triển thành một Một chương trình tương tượng hiện đang được tổ chức đại diện cho đa số các công nhân và do- triển khai và đánh giá tại Gioóc-đa-ni cũng cho anh nhân trong các lĩnh vực phi chính thức hoạt thấy những dấu hiệu hứa hẹn thành công (Hộp 6). động một cách hiệu quả, cung cấp thông tin toàn Chương trình hành động kiên quyết là một diện, hỗ trợ và triển khai đào tạo cho các thành giải pháp khác cho những vấn đề thông tin. Mục viên của hiệp hội. đích của chương trình là đẩy tỷ lệ tham gia của Xóa bỏ những cách thức đối xử phân biệt trong lao động nữ trên thị trường lao động đến một các bộ luật và quy định lao động cũng có thể tăng “ngưỡng trọng yếu” (thường được thảo luận vào cường hơn cơ hội kinh tế của phụ nữ. Trong số các khoảng 30%), như vậy các vấn đề thông tin không bộ luật và quy định lao động, một ưu tiên cần còn liên quan đến mạng lưới tìm kiếm. Kinh cải thiện là quy định hạn chế (bao gồm cả những nghiệm (chủ yếu từ các nước giàu) cho thấy các lệnh cấm triệt để) tại nhiều nước về làm việc bán chương trình hành động kiên quyết được thực thời gian. Bởi vì phụ nữ phải đảm nhận một phần hiện hiệu quả nhất nếu là một quy định bắt buộc. lớn công việc và chăm sóc gia đình, nên những Các hành động kiên quyết cũng có thể triển khai hạn chế công việc bán thời gian như vậy sẽ hạn thông qua tuyển dụng khu vực công, tuy nhiên chế cơ hội làm việc của phụ nữ hơn nam giới. điều quan trọng là cần xây dựng các quy định Xóa bỏ những hạn chế này sẽ giúp phụ nữ có một cách rõ ràng, theo dõi các tác động một cách nhiều cơ hội tham gia vào thị trường lao động thận trọng và áp dụng những biện pháp chế tài được trả lương hơn. Tại Áchentina, xóa bỏ những phù hợp nếu không tuân thủ.66 Tại các khu vực quy định về cấm ký kết các hợp đồng bán thời chương trình hành động kiên quyết được triển gian trong lĩnh vực lao động chính thức đã giúp khai, tác động của những chương trình này được có những chuyển biến đáng kể tỷ lệ phụ nữ đang thể hiện rõ ràng trong việc tái phân bổ thu nhập nuôi con từ lĩnh vực phi chính thức sang các hợp giữa phụ nữ và nam giới. Mặc dù hiệu quả kinh đồng bán thời gian tại lĩnh vực chính thức.69 tế của những chính sách này vẫn còn là một đề tài đang tranh luận, tuy nhiên những bằng chứng Các chính sách thu hẹp quyền lên tiếng toàn diện nhất (theo kinh nghiệm lâu dài tại Hoa của phụ nữ và nam giới kỳ) cho thấy có rất ít hoặc thậm chí không có bất Tăng cường tiếng nói xã hội của phụ nữ kỳ tác động tiêu cực nào về hiệu quả kinh tế.67 Nhìn chung trên cả phạm vi gia đình và xã hội, Kinh nghiệm tại một số quốc gia khác cũng cho tiếng nói của phụ nữ có ít trọng lượng hơn nam thấy nếu có bất kỳ tác động tiêu cực tiềm ẩn nào giới. Trên phạm vi xã hội, mức tăng trưởng thu về hiệu quả, vấn đề có thể được giải quyết bằng nhập cũng không góp phần thu hẹp được những việc đảm bảo rằng các chương trình hành động khoảng cách này. Chính các chuẩn tắc cho rằng kiên quyết chỉ áp dụng tạm thời và ngay lập tức làm chính trị là công việc của nam giới; các quan ngừng triển khai khi tỷ lệ lao động nữ đạt ngưỡng niệm cho rằng nữ giới là những người lãnh đạo trọng yếu cần có. Nếu không triển khai các chính kém cỏi hơn mà việc có ít phụ nữ tham gia các sách hành động kiên quyết một cách rõ ràng, hoạt động chính trị là một phần minh chứng; các khuyến khích số lượng lao động nữ làm việc tại chuẩn mực liên quan đến việc chăm sóc gia đình khu vực công cao cũng có thể mang lại hiệu ứng và làm việc nhà khiến người phụ nữ bị hạn chế phô trương. Tại các nước giàu, tăng trưởng khu thời gian tham gia các tổ chức chính trị chính vực công đóng vai trò quan trọng giúp phụ nữ thức; cũng như các mạng lưới giới trong chính có cơ hội tham gia vào các thị trường lao động.68 trị đã tác động đến phụ nữ nhiều hơn cả tăng Hỗ trợ lập một số mạng lưới cho lao động nữ trưởng thu nhập. . có thể là một phương pháp hiệu quả nếu những Do những ràng buộc này cũng tương tự như mạng lưới phân biệt giới cản trở sự tham gia của những ràng buộc hạn chế triển vọng phát triển Tổng quan 33 của người phụ nữ trên các thị trường lao động, những quan niệm cơ bản của các cử tri về hiệu nên các giải pháp chính sách cũng tương tự nhau. quả làm việc của các nữ chính trị gia, và làm tăng Những chỉ tiêu và các loại hành động quả quyết tỷ lệ nữ giới được bầu vào các vị trí này thậm chí khác đã giúp gia tăng số lượng nữ giới tham gia sau khi các hạn ngạch này không còn nữa.71 vào các vị trí chính trị ở các cấp độ khác nhau. Những hành động quyết đoán trong lĩnh vực Các biện pháp này bao gồm từ các cam kết tự chính trị cần phải được đi đôi với những biện nguyện đưa ứng cử viên nữ vào danh sách bầu cử pháp tăng cường tiếng nói của nữ giới trong các tổ của các đảng chính trị đến việc quy định cụ thể chức xã hội khác nhau, như các công đoàn, tổng số lượng ghế dành cho nữ giới trong cơ quan lập công ty, các hiệp hội tư pháp và các hội chuyên pháp. Việc đâu là lựa chọn tốt nhất dành cho một gia. Điều này có thể được thực hiện thông qua quốc gia cụ thể phụ thuộc vào hệ thống chính trị các hạn ngạch cũng như các chương trình tư vấn, của chính quốc gia đó. Ví dụ, biện pháp quy định mạng lưới nữ giới và phát triển kỹ năng trong các cụ thể số ghế dành cho nữ giới sẽ không có hiệu lĩnh vực nhắm vào nữ giới. Những hành động quả đối với những hệ thống sử dụng nguyên tắc tập thể của các nhóm nữ giới có thể sẽ mang lại đại diện theo tỷ lệ, trong khi biện pháp sử dụng hiệu quả đặc biệt trong lĩnh vực này, cũng như các hạn nghạch do đảng tự nguyện đưa ra lại có trường hợp Hiệp hội các lao động nữ độc lập của thể có hiệu quả khi các đảng có khả năng lãnh Ấn Độ. Nhìn chung, do phụ nữ có xu hướng đại đạo mạnh mẽ và có kỷ luật nội bộ. Cho dù là hệ diện tốt hơn trong một số tổ chức chưa chính thống nào đi nữa thì việc phác thảo và thực thi thức, luật pháp vá các quy định cần phải đảm bảo giải pháp cũng rất quan trọng. Ở Tây Ban Nha một sân chơi công bằng cho các tổ chức như vậy. nơi mà tên ứng cử viên vào Thượng Viện trên lá phiếu bầu cử được sắp xếp theo thứ tự bảng chữ Tăng cường tiếng nói của phụ nữ trong gia cái, trước kia các đảng thường có xu hướng gạch đình tên những người phụ nữ có họ nằm cuối lá phiếu Việc phụ nữ không có tiếng nói trong gia đình và do đó những người này thường có rất ít khả phản ánh những ảnh hưởng kết hợp của việc năng giành đươc một ghế trong Thượng Viện. 70 phụ nữ bị hạn chế khả năng tiếp cận với các cơ Nếu áp dụng biện pháp hạn ngạch để tăng hội kinh tế, bản chất của các chuẩn mực xã hội, cường tỷ lệ tham gia của phụ nữ trong chính trị, khung pháp lý và việc thực thi pháp luật. Các thì cần phải thừa nhận và tính đến các căng thẳng nhân tố quyết định năng lực kiểm soát các nguồn rộng hơn. Các hạn ngạch bắt buộc bao gồm cả lực gia đình chính là khả năng tiếp cận các cơ hội phần hạn chế chính trị của quá trình dân chủ, vì kinh tế và khung pháp lý – đặc biệt là các quyền vậy biến dạng này phải cân bằng với nhu cầu khắc hợp pháp về tài sản và quyền định đoạt tài sản. phục tình trạng bất bình đẳng kéo dài. Một lựa Về vấn đề bạo hành gia đình, các chuẩn mực xã chọn, của các chính quyền địa phương ở Ấn Độ, hội và nội dung cũng như việc thi hành pháp luật là triển khai áp dụng hạn ngạch ngay khi nhận đóng một vai trò rất quan trọng. Còn đối với khả được quyết định – với một tập hợp ghế khác nhau năng sinh sản thì các chuẩn mực, năng lực đàm đã được đặt sẵn cho các lần bầu cử khác nhau. Và phán cũng như việc cung cấp các dịch vụ chăm cũng giống như tất cả những hành động quyết sóc sức khỏe bà mẹ đóng vai trò rất quan trọng. đoán, phương thức này giúp xác định trước một mục tiêu hoặc khoảng thời gian rõ ràng. Cơ cấu Tăng cường quyền kiểm soát các nguồn lực gia giữ ghế cũng rất quan trọng. Việc chỉ định các đình ghế đặc biệt cho nữ giới có nguy cơ tạo ra hiện Do vậy, những chính sách có triển vọng nhất tượng ghế dành cho nữ giới chỉ mang “tính chiếu là tăng cường tiếng nói của nữ giới trong gia lệ”. đình tập trung cải cách khung pháp lý để phụ Hạn ngạch đã góp phần làm tăng tỷ lệ tham nữ không bị thiệt thòi trong vấn đề kiểm soát gia của nữ giới trong chính trị. Tại Mê-hi-cô, hạn tài sản gia đình và mở rộng cơ hội kinh tế cho ngạch ứng cử viên đã tăng tỷ lệ phụ nữ trong nữ giới. Các thành phần đặc biệt quan trọng của quốc hội từ 16% lên trên 22%. Ở Marốc, số ghế khung pháp lý là luật đất đai và các khía cạnh dành sẵn đã tăng tỷ lệ nữ giới trong nghị viện của luật gia đình giải quyết các vấn đề liên quan từ dưới 1% lên mức gần 11%. Các hạn ngạch ở đến quan hệ gia đình như hôn nhân, ly hôn và các chính phủ địa phương Ấn Độ cũng chỉ ra tài sản. Một vấn đề xuyên suốt được áp dụng ở rằng thậm chí trong một thời gian ngắn, những rất nhiều quốc gia có nhiều hệ thống quy phạm biện pháp như thế này cũng có thể làm thay đổi pháp luật. Việc hòa hợp các hệ thống pháp luật 34 B Á O C Á O P HÁT T R I Ể N T H Ế G I Ớ I 2 0 1 2 có thể bao gồm cả giáo luật và luật tục này được kết của chính phủ. Các luật này phải được đưa ra ưu tiên thực hiện, đặc biệt nhằm đảm bảo tất ở các quốc gia chưa có các điều luật này, đặc biệt cả các luật đều phù hợp với hiến pháp của một là ở Trung Đông và Bắc Phi, Nam Á, và châu Phi quốc gia. Kênia đã tạo được ra những thay đổi Hạ Xahara. Còn các quốc gia đã có văn bản về như thế trong những cuộc cải cách hiến pháp những luật này thì cần phảo làm cho những luật gần đây tại quốc gia này. này cụ thể hơn và có thể kiện được hơn. Mặc dù những cải cách trong các lĩnh vực này Bước thứ hai là thay đổi các chuẩn mực và rất phức tạp cả trên cả phương diện chính trị và hành vi liên quan đến bạo hành gia đình để nhấn xã hội, và phụ thuộc rất nhiều vào bối cảnh của mạnh hoạt động phòng chống bạo lực gia đình. từng quốc gia, kinh nghiệm vẫn chỉ ra rằng thay Các chương trình giáo dục và nhận nhận thức, đổi là có thể. Êtiôpia cải cách luật gia đình năm như Soul City ở Nam Phi, có thể làm thay đổi 2000, xóa bỏ điều khoản quy định người chồng những chuẩn về bạo hành gia đình trong cả nam được phép không cho vợ làm việc ngoài xã hội, giới và nữ giới. Tăng cường năng lực thương và yêu cầu cả hai vợ chồng thống nhất trong vấn lượng của nữ giới trong gia đình – bằng cách cải đề quản lý tài sản gia đình. Trong giai đoạn đầu thiện cơ hội kinh tế cho nữ giới và tăng cường thay đổi, đã có nhiều phụ nữ tham gia các hoạt quyền kiểm soát các nguồn lực cũng như khả động kinh tế ngoài xã hội, làm việc toàn thời gian năng rời bỏ cuộc hôn nhân của nữ giới – cũng và những công việc đòi hỏi các trình độ tay nghề có thể thay đổi hành vi bạo hành gia đình. Tuy cao.71 Marốc cũng tiến hành cải cách luật gia nhiên việc tăng khả năng đàm phán của phụ nữ đình những năm 90 của thế kỷ 20, và đến năm có thể dẫn đến nguy cơ tăng khả năng xảy ra bạo 2000 thì Bộ luật gia đình mới đã hoàn toàn xóa lực trong thời gian ngắn. Chính vì vậy cần phải bỏ được ý kiến cho rằng người chồng là người có các biện pháp cụ thể giảm thiểu bạo hành gia đứng đầu gia đình. đình. Cần phải nỗ lực hơn nữa để làm cho các quyền Thứ ba, khi bạo lực xảy ra, nạn nhân cần phải hợp pháp này hiệu quả hơn nữa và các hệ thống được hỗ trợ kịp thời và hiệu quả từ phía cảnh sát, tư pháp đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu của nữ giới. cơ quan tư pháp đến phía cung cấp các dịch vụ y Cần phải có các biện pháp can thiệp ở cả phía tế và xã hội, như sự hỗ trợ tổng hợp từ các trung cung và phía cầu. Các khía cạnh đặc biệt quan tâm điều trị khẩn cấp thuộc các bệnh viện chính trọng về phía cung là tăng cường năng lực các phủ tại Malaixia. Các nhà cung cấp dịch vụ - tổ chức áp dụng luật, tính trách nhiệm của các cảnh sát, cơ quan tư pháp, đơn vị cung cấp dịch hệ thống tư pháp thúc đẩy kết quả dự báo phù vụ y tế và xã hội – cần phải nhắm trực tiếp vào hợp với các quy định của pháp luật và tăng cường đối tượng phụ nữ. Việc nhắm vào phụ nữ cũng tỷ lệ tham gia của nữ giới trong các cơ quan tư đòi hỏi phải đưa các dịch vụ tới gần phụ nữ hơn pháp. Ngoài ra, các cơ chế và việc thực thi pháp nhằm đối phó với những hạn chế về thời gian và luật cũng rất quan trọng. Những bằng chứng thu tính linh động - ví dụ, thông qua việc cung cấp được từ Êtiôpia đã làm sáng tỏ cách thức các thủ các trợ lý cộng đồng và các phòng trợ giúp pháp tục liên quan đến quyền đất đai chung bắt buộc lý lưu động cho phép nữ giới có thể sử dụng hệ đã góp phần thúc đẩy quyền sở hữu đất đai của thống công lý. Trong nhiều hoàn cảnh, việc đưa phụ nữ. Việc mở rộng xóa mừ chữ, tăng cường dịch vụ đến gần hơn với các cá nhân (cầu) có khả năng tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ pháp lý và thể được kết hợp với việc nâng cao nhận thức việc giảm chi phí các thủ tục pháp lý có thể thúc của các tổ chức cung cấp dịch vụ, đặc biệt là đẩy nhu cầu thực thi các quyền đất đai của phụ cấp quản lý, về các vấn đề giới (cung). Chương nữ. Và các dữ liệu phải được thu thập và công bố trình PEKKA Trao quyền pháp lý cho phụ nữ công khai để các vấn đề liên quan đến khả năng tại Malaixia với trọng tâm là bạo lực gia đình tiếp cận công lý của nữ giới được rõ ràng hơn. và luật gia đình đã đào tạo được những trợ lý cấp làng. Một phương pháp khác cải thiện khả Giảm bạo hành gia đình năng tiếp cận công lý của phụ nữ là tăng cường Giảm bạo hành gia đình đòi hỏi phải hành động tỷ lệ phụ nữ tham gia vào lực lượng cảnh sát và trên nhiều mặt trận. Mục đích là ngăn chặn bạn tư pháp chiu trách nhiệm giải quyết vấn đề bạo hành trước khi xảy ra. Bước đầu tiên là ban hành hành gia đình. Bang Tamil Nadu của Ấn Độ đã các luật chỉ rõ các loại bạo lực đối với phụ nữ, quy giới thiệu 188 tổ chức toàn những nữ cảnh sát định chức năng và nhiệm vị thực thi và khảo sát, bảo vệ các khu vực nông thôn và thành thị và nâng cao nhận thức xã hội và truyền tín hiệu cam tập trung giải quyết các vụ bạo lực đối với phụ Tổng quan 35 nữ. Các tổ chức này đã làm số lượng phụ nữ thai có thể rất khác nhau, phụ thuộc vào việc các tìm tới các cơ sở cảnh sát gia tăng, bao gồm cả dịch vụ chỉ tiếp cận được cá nhân người phụ nữ những phụ nữ đến báo cáo về những hành vi hay tiếp cận được cả với cá nhân người phụ nữ và lạm dụng trong gia đình.73 bạn tình của họ. Tăng cường quyền kiểm soát khả năng sinh sản Các chính sách ngăn chặn tình trạng bất Tăng cường quyền kiểm soát khả năng sinh sản bình đẳng giới lặp lại qua nhiều thế hệ của phụ nữ cũng đòi hỏi phải có những hành Tình trạng các bất bình đẳng giới cụ thể lặp đi động trên nhiều lĩnh vực. Ở một số khu vực lặp lại qua nhiều thế hệ đã khiến “những bẫy trên thế giới, các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình bất bình đẳng giới” gia tăng, có khả năng ảnh hiện vẫn còn bị hạn chế. Trong một số trường hưởng nhiều nhất đến nhóm người nghèo và hợp toàn bộ dân số không được cung cấp đủ nhóm người bị lãng quên trong xã hội. Việc nữ các dịch vụ, nhưng thường thì những người phụ giới thiếu tiếng nói trong lĩnh vực chính trị đồng nữ này hoặc sống ở một số khu vực địa lý cụ nghĩa với việc những thất bại thị trường và thể thể trong các quốc gia – thường tại các khu vực chế nuôi dưỡng bất bình đẳng giới không chắc sẽ nông thôn –hoặc những người nghèo. Đối với được sửa chữa. Chỉ riêng tăng trưởng thu nhập những nhóm dân số này, cải thiện việc cung cấp không thể giải quyết được các quá trình phía sau các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình là một ưu tiên các bẫy tồn tại dai dẳng này. Các phần trước đó cần thực hiện. được xử lý bằng chính sách để giải quyết ba trong Khi việc kiểm soát các quyết định sinh sản – số những khoảng cách lặp đi lặp lại qua nhiều số con và khoảng cách giữa các lần sinh – vượt thế hệ - chạm được đến những bất lợi còn tồn quá những vấn đề liên quan đến việc cung cấp tại trong giáo dục, tăng cường tiếng nói và tỷ lệ các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, thì hai tham gia của nữ giới trong các tổ chức xã hội, lĩnh vực chính sách khác cần được hướng đến. tăng cường tiếng nói của nữ giới trong gia đình. Lĩnh vực đầu tiên là tăng cường khả năng thể hiện Ở đây, chúng tôi đề cập đến những biện pháp mong muốn của người phụ nữ liên quan đến số nhằm giải quyết tình trạng bất bình đẳng giới con và khoảng cách giữa các lần sinh. Như đã trong vốn nhân lực, các cơ hội cũng như kỳ vọng được thảo luận ở trên, khả năng tiếp cận các cơ sớm được đặt ra trong cuộc sống. hội kinh tế, quyền kiểm soát tài sản và các quy Các quyết định trong độ tuổi vị thành niên định phù hợp của luật pháp sẽ hỗ trợ hiện thực có thể định hình sự tiếp nhận kỹ năng, kết quả hóa lĩnh vực chính sách đầu tiên này. Tỷ lệ áp sức khỏe và các cơ hội kinh tế. Độ tuổi vị thành dụng các biện pháp tránh thai sẽ cao hơn khi niên cũng là thời kỳ định hình những nguyện người chồng được đưa vào các chương trình giáo vọng suốt cuộc đời của một con người, và là thời dục kế hoạch hóa gia đình. Điều này đã được kỳ mà các chuẩn mực và nhận thức xã hội bắt thực hiện ở Bangladesh 74 và ở Êtiôpia. 75 đầu ràng buộc cả trẻ em trai và trẻ em gái. Chân Lĩnh vực thứ hai là nâng cao chất lượng các trời cho những bé gái thường bị thu hẹp lại, đặc dịch vụ kế hoạch hóa gia đình. Các cải tiến nâng biệt là đối với những bé gái nghèo và những bé cao chất lượng dịch vụ kế hoạch hóa gia đình cần gái sống ở các vùng nông thôn nơi mà khoảng tập trung vào 3 lĩnh vực. Đầu tiên là phải có đủ cách và những chuẩn mực về tính lưu động có các biện pháp tránh thai có thể áp dụng được. thể là một rào cản to lớn. Việc cho phép thanh Thứ hai, phụ nữ cần phải được cung cấp đầy đủ thiếu niên đưa ra những lựa chọn tốt hơn cho thông tin về các biện pháp tránh thai hiện có, chính bản thân các em có thể tạo nên một sự tác dụng phụ của các biện pháp này, cũng như thay đổi lớn trong cuộc đời của các em, trong ưu điểm và nhược điểm của các biện pháp khác gia đình các em, trong cộng đồng các em sinh nhau, do đó mà người phụ nữ có thể đưa ra được sống, và, rộng hơn là cả xã hội trên vai trò là một quyết định thông minh. Thứ ba, các dịch vụ những người công nhân và công dân tương lai. phải được cung cấp trên cơ sở bảo vệ sự riêng tư Các biện pháp can thiệp cần phải xây dựng được của mỗi cá nhân hoặc mỗi cặp vợ chồng. Điều vốn nhân lực và vốn xã hội; tạo điều kiện chuyển này đòi hỏi các nhà cung cấp dịch vụ cần phải tiếp từ trường học đến lao động thực tế; và nâng được đào tạo theo những giao thức được thiết kế cao nguyện vọng cũng như quyền làm chủ của họ. dành riêng cho lĩnh vực kế hoach hóa gia đình. Những nỗ lực nhằm gây ảnh hưởng lên và giảm Những kinh nghiệm gần đây tại Dămbia đã cho những hành vi mạo hiểm cũng rất quan trọng. thấy những kết quả về khả năng sinh sản và tránh 36 B Á O C Á O P HÁT T R I Ể N T H Ế G I Ớ I 2 0 1 2 Các chương trình học bổng cũng như các các hành vi rủi ro. Một chương trình ở vùng nông khoản trợ cấp tiền mặt có điều kiện có thế làm thôn Tanzania đã cải thiện đáng kể kiến thức tình gia tăng tỷ lệ đến trường và làm giảm tỷ lệ bỏ học dục, thái độ về tình dục, việc sử dụng bao cao su ở thanh thiếu niên, đặc biệt là các nữ thanh thiếu trong cả hai giới, và những hành vi tình dục ở trẻ niên. Những tác động tích cực này được thể hiện em trai.83 Đối với thanh thiếu niên, việc khuyến rất rõ ở các quốc gia Mỹ Latinh như Côlumbia, khích sử dụng các biện pháp tránh thai, kết hợp Êcuađo, Mêhicô, và Nicaragoa.76 Gần đây, các với biện pháp can thiệp giáo dục và xây dựng kỹ bằng chứng thu được từ các quốc gia châu Phi năng, và nhắm vào các hoàn cảnh xã hội và văn cũng đang bắt đầu cho thấy những kết quả tương hóa một cách thích hợp, có thể sẽ có tác dụng tự. Tại Malauy, khoản trợ cấp khá nhỏ cho các giảm thiểu các trường hợp mang thai ngoài ý bé gái đã giúp gia tăng tỷ lệ đến trường và làm muốn.84 Một chương trình dành cho những trẻ giảm tỷ lệ bỏ học ở trẻ em gái.77 Hơn nữa, trong em gái vị thành niên như thế này tại Uganda sẽ khi những khoản trợ cấp tiền mặt được sử dụng làm gia tăng đáng kể tỷ lệ sử dụng bao cao su trong lĩnh vực giáo dục, những lĩnh vực khác và làm giảm số con của những người tham gia cũng có lợi, ví dụ như giảm tỷ lệ lây nhiễm HIV. chương trình.85 Đôi khi, chỉ riêng việc trao quyền Các công cụ khác có thể được đưa ra để giúp các kinh tế cũng có thể tạo ra một tác động rõ rệt. trẻ em gái được tiếp tục đến trường. Một trong Một đánh giá gần đây của một chương trình đào những công vụ này là cung cấp cho trẻ em gái tạo nghề cho thanh niên tại Cộng hòa Đôminica, những thông tin có lợi liên quan đến việc học bao gồm đào tạo kỹ năng sống cộng với chương hành tại trường, ví dụ ở Mađagatxca, việc cung trình thực tập đã chỉ ra rằng số lượng các lần cấp thông tin về thu nhập của những người đã mang thai của những người tham gia chương hoàn thành giáo dục tiểu học tới các trẻ em trai trình đã giảm đáng kể.86 và gái cũng như phụ huynh của các em đã làm Việc tiếp xúc với những tấm gương nữ giới tỷ lệ đến trường tăng 3.5 điểm phần trăm.78 Tại đang nắm những vị trí lãnh đạo hoặc quyền lực Cộng hòa Đôminica ,một nỗ lực tương tự nhằm phủ nhận các khuôn mẫu về vai trò của người cung cấp những thông tin chính xác về lợi ích phụ nữ có thể góp phần hạn chế sự lặp lại của thực tế của giáo dục tương tự đến trẻ em trai các chuẩn mực giới qua các thế hệ. Một nghiên cũng đã có tác động tích cực.79 Các bằng chứng cứu về vấn đề dành ghế chính trị cho nữ giới ở khác cho thấy những ưu đãi (triển vọng dành Ấn Độ đã chỉ ra rằng những cô gái trẻ đã từng được học bổng hoặc dành được các phần thưởng được tiếp xúc nhiều lần với những nữ lãnh đạo cho kết quả học tập tốt) có thể ảnh hưởng đến có nhiều khả năng bày tỏ nguyện vọng không nhận thức của chính các em về năng lực bản thân thừa nhận các chuẩn tắc truyền thống, ví dụ như và có thể cải thiện kết quả kiểm tra.80 mong muốn kết hôn muộn hơn, có ít con cái Đào tạo nghề nhắm vào giới trẻ đã làm gia hơn, và có được những công việc đòi hỏi phải có tăng xác suất xin được việc làm và tăng thu nhập trình độ giáo dục cao hơn.87 Những cơ hội kinh cho phụ nữ trẻ ở Côlumbia và Pê-ru.81 Tại Kênia, tế đươc mở rộng hơn cho những cô gái trẻ có thể việc cung cấp cho các cô gái trẻ những thông tin cũng thay đổi những nhận thức của riêng họ và về những lợi ích tương đối từ việc đào tạo nghề cả của cộng đồng họ đang sống về vai trò giới của trong các ngành do nam giới hoặc nữ giới thống các bé gái độ tuổi vị thành niên. Một nghiên cứu trị đã góp phần làm gia tăng số lượng nữ giới ghi về chương trình được thực hiện tại Deli liên kết danh vào các khóa học tại các trường trung cấp các cộng đồng với những nhà tuyển dụng công chuyên nghiệp, chuẩn bị cho họ những kiến thức việc mạng điện thoại với mức lương cao đã cho về những ngành nghề trước đây là đặc thù của thấy những cộng đồng này có nhiều khả năng có nam giới có lợi ích tốt hơn.82 Chương trình Sáng những kỳ vọng thấp hơn về của hồi môn mà họ kiến cho các em gái độ tuổi vị thành niên nhằm cũng có nhiều khả năng chấp nhận phụ nữ sống mục đích đánh giá một loạt những biện pháp can một mình trước khi kết hôn và đi làm trước hoặc thiệp này, bao gồm việc đào tạo và tư vấn kỹ năng, sau khi kết hôn hoặc sinh con.88 tại một số quốc gia thu nhập thấp và thu nhập trung bình (Hộp 7). Chương trình giáo dục sức khỏe đã được chứng minh là có hiệu quả trong việc làm giảm Tổng quan 37 hỘP 7  Can thiệp sớm để vượt qua thất bại của thị trường lao động trong tương lai –Sáng kiến cho các bé gái độ tuổi vị thành niên Sáng kiến cho các bé gái độ tuổi vị thành niên , nghề không bị dập khuôn hấp dẫn phụ nữ, trong một quan hệ đối tác công tư, thúc đẩy quá trình đó một số được đào tạo trở thành những thợ điện, quá độ từ vai trò một người học sinh lên vai trò của thợ xây, và kỹ sư sửa chữa điện thoại di động. một người lao động tạo ra của cải vật chất của các Các bài học thu được trong quá trình áp dụng bé gái độ tuổi vị thành niên thông qua các biện nêu rõ nhu cầu vốn xã hội đặc biệt của các cô gái, pháp can thiệp sáng tạo được kiểm nghiệm và sau những nhu cầu này cần phải được giải quyết để đó mở rộng quy mô hoặc nhân rộng mô hình nếu tạo điều kiện thuận lợi cho những phụ nữ trẻ tuổi thành công.a Đang được thực hiện tại Ápganix- dễ bị tổn thương và bị cô lập tiếp nhận các điều tan, Gióoc-đa-ni, Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào, kiện kinh tế. Trong suốt quá trình đào tạo, những Libêria, Nepan, và Nam Sudan (và sắp tới là tại nhà đào tạo trong chương trình thí điểm tại Libe- Ruanda), sang kiến này nhằm vào khoảng 20.000 ria đã chia các cô gái thành 3 hoặc 4 nhóm, các bé gái độ tuổi vị thành niên và những người phụ nhóm đều đưa ra những cam kết công khai hỗ trợ nữ độ tuổi từ 16 đến 24. một nhóm khác, cả trong và ngoài phạm vi lớp Các biện pháp can thiệp bao gồm từ việc đào học. Áp lực đồng đẳng tích cực đã góp phần duy tạo các kỹ năng và cung cấp các dịch vụ phát triển trì tỷ lệ đến trường ở mức cao, trong đó gần 95% kinh doanh đến việc đào tạo kỹ thuật và đào tạo số học viên hoàn thành khóa đào tạo, và đã giải nghề, nhắm tới các kỹ năng có nhu cầu cao. Trong quyết được sự đa dạng cấp học trong số các học tất cả các dự án, các cô gái được đào tạo các kỹ viên theo học. năng sống để giải quyết các rào cản quan trong Một sự đổi mới đầy hứa hẹn từ chương trình thí nhất ngăn cản họ được độc lập về mặt kinh tế. Biện điểm tại Liberia là một tài khoản tiết kiệm chính pháp can thiệp của mỗi quốc gia được thiết kế phù thức tại một ngân hàng địa phương dành cho tất hợp với bối cảnh cụ thể của quốc gia đó và như cầu các những cô gái đang tham gia đào tạo nghề, với cụ thể của những bé gái độ tuổi vị thành niên. Do khoản tiền gửi ban đầu là 5 USD. Các tài khoản tiết có rất ít các bằng chứng chứng tỏ đâu là biện pháp kiệm không chỉ cho phép các cô gái thực hành kỹ hiệu quả, nên việc đánh giá nghiêm ngặt các tác năng đọc viết tài chính của họ ngoài phạm vi lớp động là một phần của sáng kiến này. học mà còn xây dựng được lòng tin với các tổ chức Đào tạo kỹ năng nhằm mục đích trang bị cho tài chính chính thức, và các cô gái đã bày tỏ sự hài các cô giá những kỹ năng kỹ thuật theo nhu cầu lòng khi lần đầu tiên được kết nối với nền kinh tế trên thị trường lao động. Trong tất cả các dự án thí hiện đại. điểm, những nhà cung cấp dich vụ đào tạo phải Những hội chợ việc làm đã được tổ chức để tiến hành đánh giá thị trường trước khi lựa chọn tiếp thị chương trình tới những người sử dụng lao ngành nghề đào tạo. Trong khi trọng tâm là cân động tiềm năng quan tâm đến tạo cho các cô gái đối nhịp nhàng giữa các kỹ năng với thị trường, một cơ hội học tập hoặc làm việc. Các chuyên gia trong nhiều trường hợp các kết quả lại là những phát triển sự nghiệp và nguồn nhân lực của khu thách thức đối với các chuẩn tắc liên quan đến vực tư nhân đã gặp từng học viên một để truyền những nghề phù hợp với từng giới. đạt kiến thức của họ về ngành họ đang tham gia, Tại Libêri, phụ nữ trẻ đang tham gia được đào chia sẻ với họ về tính chuyên nghiệp tại nơi làm tạo thêm 6 tháng về các kỹ năng sơn nhà, lái xe việc, và chọ họ những thông tin phản hồi mang chuyên nghiệp, và các dịch vụ bảo vệ an ninh. Tại tính xây dựng về các kỹ năng họ có. Các cuộc gặp Nê-pan, những phụ nữ trẻ được đào tạo 3 tháng gỡ riêng từng người một đã tạo cho những cô gái về các kỹ năng nghề nghiệp, tiếp theo họ phải trải cơ hội xây dựng các mạng lưới và khai thác những qua một bài kiểm tra kỹ năng bắt buộc và được thông tin về một ngành nghề cụ thể cần thiết cho thực tập 3 tháng. Trọng tâm là xác định các ngành những người mới bước vào thị trường lao động. Các nhà tài trợ cho chương trình Sáng kiến cho các bé gái độ tuổi vị thành niên hiện nay bao gồm tập đoàn, nhà tài trợ chính, và chính phủ các nước Úc, Đan Mạch, Na Uy, Thụy Điển và Anh. Kế hoạch hành động giới của Ngân hàng cũng hỗ trợ các dự án quốc gia thuộc chương trình sáng kiến. Số tiền cam kết cho chương trình sáng kiến này hiện nay là 22 triệu USD. Hoạch định các chính sách “thông minh cả khi tăng cường bình đẳng giới không phải là giới” khác mục tiêu chính. Tại sao lại thế? Vì tất cả các thất Việc hiểu được các yếu tố giới trong các hoạt bại phân biệt giới trên các thị trường, thiên vị động của hộ gia đình, thị trường và các thể chế giới trong các tổ chức, và phương thức các mối quan trọng với các chính sách như thế nào ngay quan hệ giới tác động trở lại hộ gia đình đều ảnh 38 B Á O C Á O P HÁT T R I Ể N T H Ế G I Ớ I 2 0 1 2 hưởng (và đôi khi còn cản trở) hành vi của cả và tỷ lệ nữ giới tham gia thu hoạch trái cọ dầu nam giới và nữ giới. Do đó, nếu không tính đến cũng tăng đáng kế. những nguyên nhân này thì có thể các chính sách Thứ hai, nhiều chính sách và chương trình sẽ có những hậu quả ngoài ý muốn hoặc đơn không tập trung vào từng giới có thể được hưởng giản là không mang lại hiệu quả lợi từ việc tính đến tỷ lệ nữ giới tham gia quá ít Lấy ngay những mối quan hệ trong gia đình trong các thị trường, các ngàng kinh tế hoặc các làm ví dụ. Rõ ràng những mối quan hệ này có nghề, một tình trạng có thể gây ra những vấn đề ảnh hưởng đến cách hộ gia đình đó phản hồi lại về thông tin không chỉ đối với nữ giới mà còn chính sách – đôi khi với những hậu quả ngoài đối với những cá nhân có nhu cầu thuê họ, cho ý muốn. Ví dụ, nhiều chương trình trợ cấp tiền họ vay vốn, hoặc cung cấp các dịch vụ cho họ. mặt có điều kiện ban đầu nhằm mục tiêu vào Một ví dụ về cách làm thế nào để tính đến cả tỷ phụ nữ bởi vì nhận thức được sự khác nhau lệ đại diện quá thấp của nữ giới là chương trình trong cách tiêu tiền giữa phụ nữ và nam giới – mở rộng cơ sở dữ liệu văn phòng tín dụng bao đây dường như là một cách để nhiều khoản tiền gồm cả tài chính vi mô tại Êcuađo. Biện pháp can chuyển được sử dụng để trao quyền cho trẻ em. thiệp này sẽ hỗ trợ các tổ chức tài chính vi mô Tuy nhiên, các khoản trợ cấp đã làm thay đổi đưa ra những quyết định cho vay hợp lý hơn, độc năng lực đàm phán trong hộ gia đình và, trong lập với người mà họ cho vay. Và bởi vì các khách một số trường hợp như Mê-hi-cô, việc trợ cấp hàng tài chính vi mô chủ yếu là phụ nữ, nên hành tiền mặt kiểu này đã làm cho tình trạng bạo hành động này sẽ giúp họ tiếp cận được với nhiều dịch gia đình tăng lên trong ngắn hạn. Trong khi hiệu vụ tài chính hơn. ứng này có thể biến mất hoặc thay đổi bản chất Thứ ba, việc thiết kế chính sách phải làm sao trong dài hạn, một số các chương trình trợ cấp để tạo sân chơi bình đẳng cho cả nữ giới và nam tiền mặt sau đó đã bao gồm cả những điều kiện giới, đặc biệt là ở những nơi luật pháp và các quy ngăn cản bạo lực gia đình (Braxin), đào tạo và định phân biệt đối xử giữa nam giới và nữ giới nâng cao nhận thức về những vấn đề này ở bà và những nơi các hệ thống thực thi luật pháp mẹ và các hộ gia đình (Côlumbia, Pêru), và thậm và các quy định một cách khác nhau, ngay cả chí cả những nhân viên xã hội tận tâm (Chile). khi sân chơi này đã bình đẳng trên danh nghĩa. Vậy, làm cách nào để có thể đưa được các vấn Tìm kiếm và sửa chữa loại phân biệt đối xử này đề bất bình đẳng giới cần quan tâm và những trong quá trình sửa lại luật và các quy định hoặc yếu tố quyết định cơ bản tình trạng bất bình giới các cơ chế thực thi pháp luật và các quy định có vào việc thiết kế chương trình và chính sách sâu thể sẽ tạo ra một cơ hội cải thiện bình đẳng giới, rộng hơn? Khuôn khổ phân tích trong Báo cáo đây được xem như một lợi ích thứ cấp. Lấy ví này sẽ đưa ra một hướng dẫn. Đầu tiên, điều dụ về trường hợp thuế - các mức thuế thể hiện xảy ra trong chính hộ gia đình sẽ định hình tác rất rõ sự phân biệt đối xử đối với nữ giới khi mà động của các chính sách. Ví dụ như trường hợp ở nữ giới phải chịu những mức thuế khác nhau Papua Tân Ginê. Vai trờ giới trong việc thu hoạch tính trên phần thu nhập giống như nam giới. Ví cọ dầu thể hiện ở việc nam giới thì trèo lên cây dụ, ở Marốc, con cái thuộc đối tượng người phụ và thu hoạch quả, còn nữu giới thì nhặt những thuộc được giảm trừ gia cảnh vào thu nhập chịu quả rơi xuống đất. Ngành công nghiệp cọ dầu thuế của bố, vì thế mà người nam giới phải chịu đã nhận thấy rằng có tới 60 đến 70% trái cọ dầu gánh nặng thuế thấp hơn. Còn phụ nữ chỉ được rơi xuống đất không được nhặt lên. Họ đã thử phép giảm trừ gia cảnh tính thuế khi họ chứng áp dụng nhiều sáng kiến được thiết kế nhằm đối minh được chồng và con họ phụ thuộc tài chính phó với những rào cản mà phụ nữ phải đối mặt, vào họ. Chính sách này vừa không hiệu quả lại bao gồm cả sáng kiến cung cấp lưới đặc biệt cho vừa không bình đẳng giới. phụ nữ sử dụng, và điều chỉnh thời gian nhặt trái Khi những vấn đề cần quan tâm này được cọ dầu để phụ nữ có thể làm những công viêc gia tính vào quá trình thiết kế chính sách chung, thì đình. Không có bất cứ sáng kiến nào có hiệu quả. các chính sách có nhiều khả năng sẽ đạt được Cuối cùng, chương trình Mama Lus Frut đã được những mục tiêu dự định, và các nhà hoạch định áp dụng, theo đó phụ nữ nhận được những tấm chính sách sẽ dễ dàng chỉnh sửa các chính sách thẻ có ghi lại kết quả thu hoạch của chính họ và hơn nhằm cải thiện bình đẳng giới trong quá được trả công trực tiếp vào tài khoản ngân hàng trình thực hiện. cá nhân. Sản lượng thu hoạch được tăng đáng kể, Tổng quan 39 Cải cách nền kinh tế chính trị vì Phụ nữ và nam giới là những người bạn đồng bình đẳng giới hành trong quá trình tăng cường bình đẳng giới. Trong khi hầu hết các sáng kiến kêu gọi nam giới Các chính sách công được thiết kế rõ ràng nhằm hỗ trợ bình đẳng giới vẫn còn nhỏ, các dấu hiệu giải quyết những thất bại thị trường cụ thể và chỉ cho thấy sự hưởng ứng sâu rộng tại nhiều những rào cản về mặt thể chế hoặc về mặt chuẩn khu vực và ở nhiều quốc gia đang phát triển nam tắc xã hội có thể sẽ hỗ trợ những tiến bộ đáng kể giới ngày càng cổ vũ các quyền hợp pháp của nữ trong bình đẳng giới. Tuy nhiên, việc lựa chọn giới. Ví dụ, Trung tâm Tài nguyên của nam giới hay thực hiện chính sách không thể tách rời mọi Ruanđa đã thu hút được nam giới trưởng thành việc. Các chính sách phải hòa hợp với môi trường và các bé trai tham gia đấu tranh chống lại bạo chính trị, xã hội và thể chế của các quốc gia và hành giới. Trong những khảo sát về thái độ của hòa hợp với những nhà hoạt động xã hội có liên nam giới đối với bình đẳng giới ở Braxin, Chilê, quan. Điều quan trọng là phải hiểu phương thức Croatia, và Mêhicô, đa phần nam giới trưởng thực sự diễn ra cải cách và nhân tố nào cho phép thành bày tỏ quan điểm rằng “Nam giới không những cải cách này được duy trì để chúng có thể bị thiệt hại gì khi quyền hợp pháp của nữ giới mang lại thay đổi. được thúc đẩy”.89 Thậm chí ở Ấn Độ, nơi mà nhìn Có hai đặc điểm của các quá trình cái cách chung những nam giới trong cuộc khảo sát ít cổ giới rất đáng chú ý. Một là, cũng giống như tất vũ bình đẳng giới, thì họ vẫn hỗ trợ mạnh mẽ cả các cuộc cải cách, các quá trình cải cách giới một số chính sách, chẳng hạn số lượng nữ giới tái phân phối lại tài nguyên và quyền lực giữa các được phép theo học trong các trường đại học nhóm người trong xã hội, bao gồm cả giữa nam hoặc làm việc trong các cơ quan chính phủ. giới và nữ giới. Ngay cả khi các chính sách nhằm Thứ hai, các công ty - lớn và nhỏ - có thể lường tăng cường bình đẳng giới được lựa chọn kỹ càng trước một thương vụ kinh doanh hấp dẫn về và nâng cao được hiệu quả kinh tế, một số nhóm bình đẳng giới. Trong bối cảnh nền kinh tế toàn người có thể vẫn bị lỡ cơ hội. Hai là, những cải cầu thay đổi nhanh chóng, nhu cầu về kỹ năng đã cách kiểu này thường phải đối đầu với các chuẩn tăng lên, khuyến khích các công ty mở rộng quỹ tắc và niềm tin xã hội mạnh mẽ liên quan đến nhân tài của họ. Các doanh nghiệp đã tìm cách các vai trò giới. Mỗi đặc điểm này nói lên rằng có không chỉ để thu hút và tuyển dụng những phụ khả năng vẫn sẽ còn các tác động ngược, và việc nữ tài năng mà còn giữ được những tài năng này kiểm soát tác động ngược này là chìa khóa để cải bằng các biện pháp tạo điều kiện cân bằng cuộc cách thành công. sống –công việc. Các công ty nhận thức được Một loạt các quốc gia –giàu có và đang phát rằng các ý kiến phong phú có thể làm cho quá triển – chỉ ra rằng nhiều khía cạnh của nền kinh trình đưa ra quyết định được tốt hơn và khuyến tế chính trị trong các cuộc cải cách có liên quan khích bộc lộ tài năng. Và chính bình đẳng giới đã đặc biệt với bình đẳng giới. Đầu tiên, các cuộc cái trở thành một đặc điểm mà những khách hàng tổ có nhiều khả năng thành công khi nhận được và những nhà đầu tư khát khao tìm kiếm. sự hỗ trợ trên diện rộng. Điều quan trọng ở đây Thứ ba, những cú sốc và những thay đổi ngoại là xây dựng được các liên minh huy động xung sinh có thể mang lại cho những nhà hoạch định quanh các cuộc cải cách. Những liên minh này có chính sách những cánh cửa cơ hội để thực hiện thể bao gồm cả những nhà hoạt động ngoài lĩnh các cuộc cải cách có thể góp phần cải thiện kết vực nhà nước như các đảng chính trị, công đoàn, quả giới. Những cửa sổ cơ hội như vậy đôi khi bắt các tổ chức và hiệp hội dân sự, và cả lĩnh vực tư nguồn từ hoàn cảnh không lường trước, chẳng nhân. Đặc biệt, các nhóm phụ nữ có là một động hạn như một thảm họa quốc gia. Năm 1998, lực thúc đẩy bình đẳng giới trong luật lao động và thảm họa sau cơn bão Mitch ở Nicaragoa tạo luật gia đình. Ví dụ, những người phụ nữ làm việc điều kiện thuận lợi diễn ra một cuộc đối thoại về trong khu vực phi chính thức đã dám đưa những bạo lực gia đình. Sau đó đã diễn ra một chiến dịch yêu cầu đến những người sử dụng lao động và quốc gia và một pháp luật liên quan đến vấn đề đôi khi là nhà nước thông qua các tổ chức như bạo lực gia đình đã được ban hành. Các cửa sổ cơ Hiệp hội phụ nữ tự quản ở Ấn Độ và trung tâm hội khác được mở ra từ những thay đổi bối cảnh Nijera Kori ở Băng la đét. Những tổ chức này đã chính trị hoặc kinh tế. Những thay đổi ở Tây Ban mang lại tiếng nói cho người phụ nữ và tạo ra Nha trong quá trình chuyển đổi dân chủ vào cuối không gian cho các hành động công khai chống những năm 1970 đã có những tác động mạnh mẽ lại những cuộc chống phá cải tổ. đến luật gia đình và quyền sinh sản. Và vẫn còn 40 B Á O C Á O P HÁT T R I Ể N T H Ế G I Ớ I 2 0 1 2 những cơ hội khác bắt nguồn từ những cuộc vận tin, độ linh động và công nghệ – có dẫn đến bình động của các tổ chức xuyên quốc gia và từ việc đẳng giới cao hơn và làm cho cuộc sống của tất mô hình hóa vai trò giới trong chương trình nghị cả phụ nữ đều tốt hơn hay không, hay chỉ ảnh sự toàn cầu. Ví dụ, chương trình giám sát và vận hưởng đến một số ít. động của các nhóm phụ nữ địa phương tại Cô- Hành động toàn cầu nên tập trung vào các lumbia trong khuôn khổ Công ước về Xóa bỏ mọi khu vực nơi mà khoảng cách giới còn thể hiện hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW) rõ nét nhất về cả mặt bản chất và tiềm năng phát đã cho biết việc đảm bảo sức khỏe sinh sản đã triển – và những nơi mà chỉ riêng tốc độ tăng được mở rộng trong Hiến pháp Côlumbia, được trưởng không thể giải quyết được vấn đề này. thông qua năm 1990, và tạo điều kiện làm tăng Hay nói cách khác, hành động quốc tế cần tập khả năng sử dụng các biện pháp tránh thai. trung bổ sung các nỗ lực quốc gia trong 4 lĩnh vực Cuối cùng, có rất nhiều con đường thực hiện ưu tiên trong Báo cáo này: cải cách. Các chính phủ thường đi theo các tín • Giảm tỷ lệ tử vong quá cao ở phụ nữ và xóa hiệu của xã hội trong quá trình chỉ đạo thực hiện bỏ khoảng cách về giáo dục ở những nơi còn và thúc đẩy cải cách. Khi việc xây dựng và thực tồn tại. hiện chính sách dựa trên các tín hiệu từ những thay đổi đang diễn ra trên các thị trường và các • Cải thiện khả năng tiếp cận các cơ hội kinh tế chuẩn mực xã hội, thì việc hội tụ và liên kết có cho phụ nữ. thể tiếp thêm động lực cho thay đổi bền vững. • Tăng cường tiếng nói và vai trò làm chủ của Tuy nhiên, những cải cách “gia tăng” như vậy có nữ giói trong gia đình và xã hội. thể vẫn không đủ để khắc phục sự phụ thuộc con đường đi và tính cứng nhắc về mặt thể chế gây • Hạn chế việc lặp đi lặp lại hiện tượng bất nên tình trạng bất bình đẳng giới kéo dài. Có thể bình đẳng giới qua các thế hệ. sẽ cần những hành động táo bạo của chính phủ Ngoài ra, còn có một lĩnh vực ưu tiên xuyên trong các cuộc cải cách “biến đổi” để làm thay đổi suốt đó là hỗ trợ các hành động công dựa trên động lực xã hội và hướng tới một trạng thái cân bằng chứng thông qua việc tạo ra và chia sẻ các bằng bình đẳng hơn. Khi lựa chọn giữa các chính dữ liệu và kiến thức tốt hơn, và học hỏi tốt hơn. sách gia tăng và biến đổi như là một phần của các Động cơ cho một chương trình hành động cải cách giới, thách thức đối với các nhà hoạch toàn cầu bao gồm ba điểm. Đầu tiên, tiến bộ trên định chính sách là làm sao để cân bằng giữa tốc một số mặt trận phải hướng tới nhiều nguồn lực độ thay đổi với những rủi ro của sự đảo lộn. Các hơn ở cả các nước giàu lẫn các nước đang phát chính sách gia tăng sẽ chỉ mang lại thay đổi chậm triển (ví dụ, để tạo ra bình đẳng cao hơn trong chạp. Tuy nhiên, các chính sách biến đổi có thể vấn đế trao quyền con người hoặc để giải quyết có nguy cơ bị sai lệch. Biện pháp sau này là phải các nguyên nhân gốc rễ gây nên tỷ lệ tử vong quá chọn lựa cẩn thận khi thực hiện các chính sách cao ở phụ nữ trên toàn thế giới?. Thứ hai, hành biến đối và đảm bảo phải quan tâm đến việc thực động hiệu quả đôi khi lại xoay quanh việc sản hiện các chính sách này. xuất một hàng hóa công cộng, như tạo ra thông tin hoặc kiến thức (toàn cầu) mới. Và thứ ba, khi một chính sách cụ thể có tác động xuyên biên MỘT CHƯƠNG TRÌNH NGHỊ SỰ TOÀN giới, thì việc phối hợp giữa một số quốc gia và tổ CẦU VỀ BÌNH ĐẲNG GIỚI TỐT HƠN chức có thể tăng cường hiệu quả của chính sách này, nhất là tạo động lực và áp lực hành động ở Hành động trong nước là trung tâm trong quá cấp độ quốc gia. trình giảm bất bình đẳng. Hành động toàn cầu Dựa trên các tiêu chí này, các sáng kiến bao – của các chính phủ, người dân và các tổ chức gồm trong chương trình nghị sự đề xuất về hành ở các quốc gia phát triển và đang phát triển, và động toàn cầu có thể được chia thành ba loại các tổ chức quốc tế - không thể thay thế cho các hoạt động: chính sách và các tổ chức hiệu quả và công bằng trong nước. Nhưng hành động toàn cầu có thể Hỗ trợ tài chính. Những cải tiến trong cung cấp tăng cường phạm vi và ảnh hưởng của các chính nước sạch và vệ sinh môi trường hoặc các dịch vụ sách trong nước. Và nó có thể ảnh hưởng đến y tế tốt hơn, chẳng hạn như những dịch vụ cần việc liệu quá trình hội nhập toàn cầu và những thiết để làm giảm tỷ lệ tử vong quá cao ở phụ nữ cơ hội mà quá trình mang lại - thông qua thông Tổng quan 41 tại các quốc gia đang phát triển trên thế giới, sẽ quan hệ đối tác tập trung vào nhóm thanh thiếu cần phải có nhiều nguồn lực – thượng vượt qua niên. Trong những lĩnh vực sau, nên tập trung cả các biện pháp của chính phủ, đặc biệt là chính vào việc duy trì những nỗ lực và quan hệ đối tác phủ các quốc gia nghèo tương đối. Cộng đồng đang diễn ra, và đáp ứng các cam kết ưu tiên. phát triển quốc tế có thể hỗ trợ tài chính cho Cuối cùng, khuôn khổ và bản phân tích được các quốc gia sẵn sàng và có khả năng thực hiện trình bày trong Báo cáo này đưa ra bốn nguyên những cải cách như vậy trên tình thần hợp tác tắc chung cho việc thiết kế chương trình và chính thông qua các sáng kiến cụ thể hoặc tài trợ cơ sở sách có thể góp phần tăng cường tác động và hiệu vật chất để bảo đảm những cái cách này sẽ mang quả của các hành động toàn cầu trên tất cả các lại tác động lớn nhất và giảm thiểu tác động lặp. lĩnh vực ưu tiên. Những nguyên tắc này là: • Nguyên tắc chẩn đoán giới toàn diện được Thúc đẩy sáng tạo và học hỏi. Trong khi đã học xem như một điều kiện tiên quyết để thiết kế hỏi được rất nhiều về cải cách nào có tác dụng và chương trình và chính sách. Bất bình đẳng cải cách nào không có tác dụng tăng cường bình giới vẫn còn tồn tại dai dẳng vì nhiều lý do: đẳng giới, trong thực tế những tiến bộ đó thường Có thể vẫn còn một “điểm hãm” thể chế hoặc bị kìm hãm do thiếu dữ liệu hoặc thiếu các giải chính sách khó khăn hoặc dễ dàng bị phong pháp phù hợp để giải quyết các vấn đề “dai dẳng tỏa; có thể còn tồn tại nhiều rào cản tăng nhất”. Đây chính là trường hợp khác biệt giới liên cường trong thị trường, các thể chế chính quan đến việc sử dụng thời gian và các chuẩn thức, và các hộ gia đình liên kết với nhau tắc xung quanh vấn đề chăm sóc gia đình. Cộng ngăn cản quá trình phát triển; hoặc có thể đồng phát triển có thể thúc đẩy sự đổi mới và học vẫn còn những nguồn gốc sâu xa ảnh hưởng hỏi thông qua việc thử nghiệm và đánh giá theo đến vai trò giới hoặc những chuẩn tắc xã hội hướng chú ý đến những kết quả và tiến bộ, cũng tiến triển chậm chạp. Để thiết kế được chính như bối cảnh, và do đó tạo điều kiện thuận lợi sách hiệu quả đòi hỏi phải có một hiểu biết nhân rộng các trải nghiệm thành công. sâu rộng về những tình huống chiếm ưu thế trong một bối cảnh cụ thể, và đâu là những Tận dụng quan hệ đối tác hiệu quả. Như được hạn chế ràng buộc và những hạn chế này làm rõ trong chương 8, một cuộc cải cách thành xuất hiện trong hoàn cảnh nào. Để có hiệu công thường cần phải có các liên minh hoặc các quả, việc chẩn đoán này phải đi sâu vào quan hệ đối tác có thể hoạt động trong và ngoài những gì đang diễn ra trong các hộ gia đình, phạm vi biên giới. Các quan hệ đối tác như vậy có các thị trường và các thể chế chính thức, thể được xây dựng giữa những người trong cộng tương tác của những sự kiện này và các đồng phát triển quốc tế quanh các vấn đề tài trợ, chuẩn tắc xã hội định hình nên chúng. với giới học thuật và các nhóm chuyên gia vì mục đích thử nghiệm và học hỏi, và, rộng hơn là với • Nguyên tắc hướng tới các yếu tố quyết định khu vực tư nhân để tăng cường khả năng tiếp cận chứ không phải là các kết quả. Trong quá cơ hội kinh tế. Cùng nhau, các mối quan hệ đối trình chọn lựa và thiết kế các chính sách, việc tác này có thể hỗ trợ các quốc gia tận dụng được cần thiết là nhắm vào các rào cản thị trường các nguồn lực và những thông tin cần thiết để và thể chế - nguyên nhân gây ra bất bình thúc đẩy thành công bình đẳng giới trong thế giới đẳng giới hiện nay, chứ không phải là nhắm toàn cầu hóa hiện nay. vào chính các kết quả. Những rào cản này có Tầm quan trọng tương đối của những hoạt thể rất phức tạp và thậm chí không thuộc động này rõ ràng sẽ khác biệt giữa các quốc gia. trong lĩnh vực nhìn thấy rõ kết quả. Bảng 2 là bảng tóm tắm nội dung chương trình • Nguyên tắc “ngược dòng” và lồng ghép chiến nghị sự đề xuất hành động toàn cầu (được mô tả lược. Do khoảng cách giới thường là kết quả chi tiết hơn tại chương 9). Các lĩnh vực có dấu của rất nhiều hạn chế tương tác, nên các biện kiểm (√) là những lĩnh vực cần có thêm hành pháp can thiệp liên ngành, hoặc can thiệp động mới/ bổ sung hoặc là các lĩnh vực cần tái tập theo trình tự đòi hỏi phải có những hành trung vào những sáng kiến hiện có. Tất nhiên, động hiệu quả. Và trong rất nhiều trường cũng có những nỗ lực quan trọng hiện nay không hợp, các biện pháp can thiệp như vậy có thể được đánh dấu – ví dụ, đổi mới các mô hình cung chọn được hình thức các chính sách “thông cấp biện pháp phòng tránh HIV / AIDS, hoặc các minh giới” chung bằng cách tích hợp các vấn đề liên quan đến giới vào quá trình thiết kế 42 B Á O C Á O P HÁT T R I Ể N T H Ế G I Ớ I 2 0 1 2 B Ả N G 2  Chương trình hành động toàn cầu trong ngắn hạn Phương hướng cho cộng đồng phát triển toàn cầu Những sáng kiến mới/bổ sung cần Khuyến khích đổi mới Thúc đẩy quan hệ Lĩnh vực ưu tiên Hỗ trợ tài chính hỗ trợ và học hỏi đối tác Tăng khả năng tiếp cận giáo dục cho những nhóm dân số có hoàn cảnh khó √ √ khăn Tăng khả năng tiếp cận nguồn nước Xoá bỏ khoảng cách giới liên √ √ sạch quan đến nguồn vốn nhân lực Tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ √ √ √ chăm sóc sức khỏe bà mẹ chuyên biệt Tăng cường hỗ trợ phòng và điều trị √ √ HIV / AIDS Tăng cường tiếp cận tới dịch vụ trông √ √ Tăng khả năng tiếp cận các cơ trẻ và giáo dục mầm non hội kinh tế của nữ giới Tăng khả năng tiếp cận cho phụ nữ ở √ √ nông thôn Tăng khả năng tiếp cận hệ thống tư Xoá bỏ khoảng cách giới liên √ pháp của nữ giới quan đến tiếng nói và quyền làm chủ Thay đổi các chuẩn tắc về bạo lực đối √ √ với phụ nữ Ngăn chặn hiện tượng tái diễn Đầu tư vào nhóm trẻ độ tuổi vị thành bất bình đẳng giới qua các √ niên thể hệ Tạo ra thông tin mới √ √ Hỗ trợ hành động công dựa trên bằng chứng Tạo điều kiện chia sẻ và học hỏi kiến √ thức Nguồn: Nhóm tác giả BCPTTG 2012. và thực hiện chính sách. Do đó, để tối đa hóa LƯU Ý: tác động, các vấn đề giới cần phải được tìm hiểu từ các sản phẩm và dự án của các khu  1. Sen 1999.   2.  Esteve-Volart and Bagues 2010. vực cụ thể đến các chương trình quốc gia và  3. Gilbert, Sakala, and Benson 2002; Vargas Hill khu vực. Điều này làm cho việc lồng ghép and Vigneri 2009. giới mang tính chiến lược hơn.  4. Udry 1996. • Nguyên tắc không một chuẩn mực nào phù   5.  FAO, IFAD, and ILO 2010. hợp với tất cả các hoàn cảnh. Bản chất, cấu  6. Cuberes and Teignier Baqué 2011; Hurst and others 2011. trúc và chức năng của các thị trường và thể   7.  Do, Levchenko, and Raddatz 2011. chế, các chuẩn mực và những nét văn hóa có   8.  Do, Levchenko, and Raddatz 2011. sự khác biệt rất lớn giữa các quốc gia, và do   9.  Do, Levchenko, and Raddatz 2011. đó những hành vi của cá nhân và hộ gia đình 10. Haddad, Hoddinott, and Alderman 1997; Katz cũng có sự khác biệt rất lớn giữa các quốc gia. and Chamorro 2003; Duflo 2003; Thomas 1990; Điều này đồng nghĩa với việc cũng một chính Hoddinott and Haddad 1995; Lundberg, Pol- sách có thể mang lại những kết quả rất khác lak, and Wales 1997; Quisumbing and Maluccio nhau tùy thuộc vào những bối cảnh cụ thể - 2000; Attanasio and Lechene 2002; Rubalcava, hoặc, như được nói rõ trong chương 8, có Teruel, and Thomas 2009; Doss 2006; Schady and nghĩa là có rất nhiều con đường cải cách khác Rosero 2008. nhau. 11.  Doss 2006. 12.  Thomas 1990. 13.  Qian 2008. 14.  Luke and Munshi 2011. Tổng quan 43 15.  Thomas, Strauss, and Henriques 1990; Allendorf 53.  Kishor and Johnson 2004. 2007. 54.  World Bank 2005. 16. Andrabi, Das, and Khwaja 2011; Dumas and 55.  Chung and Das Gupta 2007. Lambert 2011. 56.  Waddington and others 2009. 17.  Felitti and others 1998; McEwen 1999. 57.  Chioda, Garcia-Verdú, and Muñoz Boudet 2011. 18.  Kishor and Johnson 2004; Jeyaseelan and others 58.  Björkman and Svensson 2009. 2007; Hindin, Kishor, and Ansara 2008; Koenig 59.  Cotlear 2006. and others 2006; Martin and others 2002. 19.  Miller 2008. 60.  Lim and others 2010. Janani Suraksha Yojana also 20. Beaman and others, forthcoming; Chattopad- had significant impacts on perinatal and neo- hyay and Duflo 2004. natal deaths, which declined by 3.7 deaths per 21.  Beaman and others, forthcoming. 1,000 pregnancies and by 2.5 deaths per 1,000 22.  Agarwal 2010a; Agarwal 2010b. live births, respectively. The study was unable to 23.  World Bank 2005. detect an e­ ffect on maternal mortality; however, 24 World Bank 2001. perhaps because maternal death is a relatively 25.  World Bank 2011. rare event and the sample size of the study was 26. See World Bank (2001) and also World Bank big enough only to detect very large effects. (2011b), from which we draw for the conceptual 61.  Prata and others 2010; WHO and others 2010. framework. 27.  Chioda, Garcia-Verdú, and Muñoz Boudet 2011. 62.  Baris, Mollahaliloglu, and Sabahattin 2011. 28.  World Bank 2008. 63.  Fiszbein and others 2009. 29.  Lewis and Lockheed 2006. 64.  FAO 2003. 30.  Chioda, Garcia-Verdú, and Muñoz Boudet 2011. 65.  Deininger, Ali, and Zevenbergen 2008. 31. For a detailed description of the methodology, 66.  Leonard 1989, Holzer and Neumark 2000. which builds on Anderson and Ray (2010), see 67.  Holzer and Neumark 2000. chapter 3. 68.  Gornick and Jacobs 1998; OECD 1993; Schmidt 32.  The problem of many missing girls was first doc- 1993. umented by Sen (1992), Coale (1984), and Das 69.  Bosch and Maloney 2010. Gupta (1987). 70.  Esteve-Volart and Bagues 2010. 33.  WHO, UNICEF, UNFPA, and World Bank 2010. 34.  FAO 2011. 71. Quotas are implemented on a rotating basis 35.  For the purpose of the discussion in this chap- across localities. ter, the term “entrepreneur” refers to individuals 72.  Gajigo and Hallward-Driemeier 2011. who are self-employed with no employees own 73.  Natarajan 2005. account workers and with employees employers. 74.  Barker and Ricardo 2005. 36.  Sabarwal, Terrell, and Bardasi 2009; Bruhn 2009; 75.  Terefe and Larson 1993. Hallward-Driemeier 2011. 76.  See Rawlings and Rubio (2003) for Mexico and 37.  Costa and Rijkers 2011. Nicaragua, Barrera-Osorio and Linden (2009) 38.  FAO 2011. for Colombia, and Schady and Araujo (2006) for 39.  Nyamu-Musembi 2002. Ecuador. 40.  Deere and Doss 2006. 41.  Team estimates based on ICF Macro 2010. 77.  Baird and others 2009. 42.  Reed and others 2010. 78.  Nguyen 2008. 43.  WHO 2005. 79.  Jensen 2010. 44. United Nations Department of Economic and 80. Angrist and Lavy 2009; Kremer, Miguel, and Social Affairs 2010. Thornton 2009. 45.  Agarwal and Panda 2007. 81. Attanasio, Kugler, and Meghir 2008; Ñopo, Ro- 46.  Pronyk and others 2006; ICRW 2006; Swamina- bles, and Saavedra 2007; Hjort and o ­ thers 2010. than, Walker, and Rugadya 2008. 82.  Hjort and others 2010. 47.  Dercon and Singh 2011. 83.  Ross and others 2007. 48.  Fernández and Fogli 2009; Fogli and Veldkamp, 84.  Gilliam 2010; Bearinger and others 2007. forthcoming; Farré and Vella 2007. 49.  Agarwal and Panda 2007. 85.  Bandiera and others 2011. 50.  Gage 2005. 86.  Martinez and others 2011. 51. Yount and Carrera 2006; Castro, Casique, and 87.  Beaman and others 2009. Brindis 2008. 88.  Jensen 2010. 52.  Abrahams and others 2009. 89.  Barker and others 2011. 44 B Á O C Á O P HÁT T R I Ể N T H Ế G I Ớ I 2 0 1 2 TÀI LIỆU THAM KHẢO Attanasio, Orazio, and Valérie Lechene. 2002. “Tests of Income Pooling in Household Decisions.” Re- Từ soạn thảo để chỉ những báo cáo được tiến view of Economic Dynamics 5 (4): 720–48. hành nghiên cứu nhưng chưa hoàn thiện nên có Baird, Sarah, Ephraim Chirwa, Craig McIntosh, and thể không tìm thấy ở các thư viện. Berk Özler. 2009. “The Short-term Impacts of a Schooling Conditional Cash Transfer Program on the Sexual Behavior of Young Women.” Pol- Abrahams, Naeemah, Rachel Jewkes, Lorna J. Martin, icy Research Working Paper Series 5089, World Shanaaz Mathews, Lisa Vetten, and Carl Lombard. 2009. “Mortality of Women from Intimate Partner Bank, Washington, DC. Violence in South Africa: A National Epidemio- Bandiera, Oriana, Niklas Buehren, Robin Burguess, logical Study.” Violence and Victims 24 (4): 546–56. Markus Goldstein, Selim Gulesci, Imran Rasul, Agarwal, Bina. 1994. A Field of One’s Own: Gender and Munshi Sulaiman. 2011. “Economic Em- and Land Rights in South Asia. Cambridge, U.K.: powerment of Female Adolescents: Evidence Cambridge University Press. from Uganda.” Presentation to the American Agri- ———. 1997. “ ‘Bargaining’ and Gender Relations: cultural Association, Pittsburgh, PA. Within and Beyond the Household.” Feminist Eco- Baris, Enis, Salih Mollahaliloglu, and Aydin Sabahat- nomics 3 (1): 1–51. tin. 2011. “Healthcare in Turkey: From Laggard ———. 2010a. “Does Women’s Proportional Strength to Leader.” British Medical Journal 342 (c7456): Affect Their Participation? Governing Local For- 579–82. ests in South Asia.” World Development 38 (1): Barker, Gary, Manuel Contreras, Brian Heilman, Ajay 98–112. Singh, Ravi Verman, and Marcos Nascimento. ———. 2010b. Gender and Green Governance: The 2011. “Evolving Men: Initial Results from the Political Economy of Women’s Presence Within and International Men and Gender Equality Survey Beyond Community Forestry. New York: Oxford (IMAGES).” International Center for Research on University Press. Women and Instituto Promundo, Washington, Agarwal, Bina, and Pradeep Panda. 2007. “Toward DC. Freedom from Domestic Violence: The Neglected Barker, Gary, and Christine Ricardo. 2005. “Young Obvious.” Journal of Human Development and Ca- Men and the Construction of Masculinity in Sub- pabilities 8 (3): 359–88. Saharan Africa: Implications for HIV/AIDS, Con- Alene, Arega D., Victor M. Manyong, Gospel O. flict, and Violence.” Social Development Papers, Omanya, Hodeba D. Mignouna, Mpoko Bokanga, World Bank, Washington, DC. and George D. Odhiambo. 2008. “Economic Ef- Barrera-Osorio, Felipe, and Leigh L. Linden. 2009. ficiency and Supply Response of Women as Farm “The Use and Misuse of Computers in Education: Managers: Comparative Evidence from Western Evidence from a Randomized Experiment in Co- Kenya.” World Development 36 (7): 1247–60. lombia.” Policy Research Working Paper Series Allendorf, Keera. 2007. “Do Women’s Land Rights 4836, World Bank, Washington, DC. Promote Empowerment and Child Health in Ne- Beaman, Lori, Raghabendra Chattopadhyay, Esther pal?” World Development 35 (11): 1975–88. Duflo, Rohini Pande, and Petia Topalova. 2009. Anderson, Siwan, and Debraj Ray. 2010. “Missing “Powerful Women: Does Exposure Reduce Bias?” Women: Age and Disease.” Review of Economic Quarterly Journal of Economics 124 (4): 1497–540. Studies 77 (4): 1262–300. Beaman, Lori, Esther Duflo, Rohini Pande, and Pe- Andrabi, Tahir, Jishnu Das, and Asim Ijaz Khwaja. tia Topalova. Forthcoming. “Political Reservation 2011. “Students Today, Teachers Tomorrow. Iden- and Substantive Representation: Evidence from tifying Constraints on the Provision of Educa- Indian Village Councils.” In India Policy Forum, tion.” Policy Research Working Paper Series 5674, 2010, ed. Suman Bery, Barry Bosworth, and Ar- World Bank, Washington, DC. vind Panagariya. Brookings Institution Press and Angrist, Joshua, and Victor Lavy. 2009. “The Effects of the National Council of Applied Economic Re- High Stakes High School Achievements Awards: search, Washington, DC, and New Delhi. Evidence from a Randomized Trial.” American Bearinger, Linda H., Renee E. Sieving, Jane Ferguson, Economic Review 99 (4): 1384–414. and Vinit Sharma. 2007. “Global Perspectives on Attanasio, Orazio, Adriana Kugler, and Costas the Sexual and Reproductive Health of Adoles- Meghir. 2008. “Training Disadvantaged Youth cents: Patterns, Prevention, and Potential.” Lancet in Latin America: Evidence from a Randomized 369 (9568): 1220–31. Trial.” Working Paper Series 13931, National Bu- Berniell, Maria Inés, and Carolina Sánchez-Páramo. reau of Economic Research, Cambridge, MA. 2011. “Overview of Time Use Data Used for the Analysis of Gender Differences in Time Use Pat- terns.” Background paper for the WDR 2012. Tổng quan 45 Björkman, Martina, and Jacob Svensson. 2009. Deere, Carmen Diana, and Cheryl R. Doss. 2006. “Power to the People: Evidence from a Random- “Gender and the Distribution of Wealth in Devel- ized Field Experiment on Community-Based oping Countries.” Research Paper Series 2006/115, Monitoring in Uganda.” Quarterly Journal of Eco- United Nations University and World Institute for nomics 124 (2): 735–69. Development Economics Research, Helsinki. Booth, Alison L., and Patrick J. Nolen. 2009. “Gen- Deininger, Klaus, Daniel Ayalew Ali, Holden T. Stein, der Differences in Risk Behaviour: Does Nurture and Jaap Zevenbergen. 2008. “Rural Land Certi- Matter?” Centre for Economy Policy Research, fication in Ethiopia: Process, Initial Impact, and London. Implications for Other African Countries.” World Bosch, Mariano, and William F. Maloney. 2010. Development 36 (10): 1786–812. “Comparative Analysis of Labor Market Dynam- Dercon, Stefan, and Abhijeet Singh. 2011. “From Nu- ics Using Markov Processes: An Application to trition to Aspirations and Self-Efficacy: Gender ­Informality.” Labour Economics 17 (4): 621–31. Bias over Time among Children in Four Coun- Bruhn, Miriam. 2009. “Female-Owned Firms in tries.” Oxford University, Oxford, U.K. Processed. Latin America. Characteristics, Performance, and Do, Quy-Toan, Andrei Levchenko, and Claudio Rad- Obstacles to Growth.” Policy Research Working datz. 2011. “Engendering Trade.” Background pa- Paper Series 5122, World Bank, Washington, DC. per for the WDR 2012. Castro, Roberto, Irene. Casique, and Claire D. Brin- Doss, Cheryl R. 2006. “The Effects of Intrahousehold dis. 2008. “Empowerment and Physical Violence Property Ownership on Expenditure Patterns throughout Women’s Reproductive Life in Mex- in Ghana.” Journal of African Economies 15 (1): ico.” Violence Against Women 14 (6): 655–77. 149–80. Chattopadhyay, Raghabendra, and Esther Duflo. Duflo, Esther. 2003. “Grandmothers and Grand- 2004. “Women as Policy Makers: Evidence from a daughters: Old-Age Pensions and Intrahousehold Randomized Policy Experiment in India.” Econo- Allocation in South Africa.” World Bank Economic metrica 72 (5): 1409–43. Review 17 (1): 1–25. Chioda, Laura, with Rodrigo Garcia-Verdú, and Ana Dumas, Christelle, and Sylvie Lambert. 2011. “Edu- María Muñoz Boudet. 2011. Work and Family: cational Achievement and Socio-Economic Back- Latin American Women in Search of a New Bal- ground: Causality and Mechanisms in Senegal.” ance. Office of the Chief Economist and Poverty Journal of African Economies 20 (1): 1–26. Gender Group, LAC. Washington, DC: World Esteve-Volart, Berta, and Manuel F. Bagues. 2010. Bank. “Are Women Pawns in the Political Game? Evi- Chung, Woojin, and Monica Das Gupta. 2007. “The dence from Elections to the Spanish Senate.” Decline of Son Preference in South Korea: The Working Paper Series 2009–30, Fundación de Es- Roles of Development and Public Policy.” Popula- tudios de Economía Aplicada, Madrid. tion and Development Review 33 (4): 757–83. Farré, Lídia, and Francis Vella. 2007. “The Intergen- Coale, Ansley J. 1984. “Rapid Population Change in erational Transmission of Gender Role Attitudes China, 1952–1982.” Report 27, Committee on and Its Implications for Female Labor Force Par- Population and Demography, National Acad- ticipation.” Discussion Paper Series 2802, Institute emies Press, Washington, DC. for the Study of Labor, Bonn. Costa, Rita, and Bob Rijkers. 2011. “Gender and Ru- Fehr, Ernst, Urs Fischbacher, and Simon Gächter. ral Non-Farm Entrepreneurship.” Background pa- 2002. “Strong Reciprocity, Human Cooperation per for the WDR 2012. and the Enforcement of Social Norms.” Human Cotlear, Daniel, ed. 2006. “A New Social Contract for Nature 13 (2002): 1–25. Peru: An Agenda for Improving Education, Health Felitti, Vincent D., Robert F. Anda, Dale D. Norden- Care, and the Social Safety Net.” Country Study, berg, David F. Williamson, Alison M. Spitz, Val- World Bank, Washington, DC. erie Edwards, Mary P. Koss, and James S. Marks. Croson, Rachel, and Uri Gneezy. 2009. “Gender Dif- 1998. “Relationship of Childhood Abuse and ferences in Preferences.” Journal of Economic Lit- Household Dysfunction to Many of the Leading erature 47 (2): 448–74. Causes of Death in Adults: The Adverse Child- Cuberes, David, and Marc Teignier Baqué. 2011. hood Experiences (ACE) Study.” American Jour- “Gender Inequality and Economic Growth.” Back- nal of Preventive Medicine 14 (4): 245–58. ground paper for the WDR 2012. Fernández, Raquel, and Alessandra Fogli. 2009. “Cul- Das Gupta, Monica. 1987. “Selective Discrimination ture: An Empirical Investigation of Beliefs, Work, against Female Children in Rural Punjab, In- and Fertility.” American Economic Journal: Macro- dia.” Population and Development Review 13 (1): economics 1 (1): 146–77. 77–100. Fiszbein, Ariel, Norbert Schady, Francisco H. G. Ferreira, Margaret Grosch, Nial Kelleher, Pedro 46 B Á O C Á O P HÁT T R I Ể N T H Ế G I Ớ I 2 0 1 2 Olinto, and Emmanuel Skoufias. 2009. World Hjort, Jonas, Michael Kremer, Isaac Mbiti, and Bank Policy Research Report: Conditional Cash Edward Miguel. 2010. “Vocational Education Transfers: Reducing Present and Future Poverty. Vouchers and Labor Market Returns: A Random- Washington, DC: World Bank. ized Evaluation among Kenyan Youth.” Harvard Fogli, Alessandra, and Laura Veldkamp. Forth- University and Southern Methodist University, coming. “Nature or Nurture? Learning and the Berkeley, CA. Processed. Geography of Female Labor Force Participation.” Hoddinott, John, and Lawrence Haddad. 1995. “Does Econometrica. Female Income Share Influence Household Ex- FAO (Food and Agriculture Organization). 2003. penditures? Evidence from Côte D’Ivoire.” Oxford “Revisiting the ‘Magic Box.’ ” Case Studies in Lo- Bulletin of Economics and Statistics 57 (1): 77–96. cal Appropriation of Information and Communi- Holzer, Harry J., and David Neumark. 2000. “Assess- cation Technologies, FAO, Rome. ing Affirmative Action.” Journal of Economic Lit- ———. 2011. “The State of Food and Agriculture erature 38 (3): 483–568. 2010–11. Women in Agriculture: Closing the Hurst, Erik, Chang-Tai Hsieh, Charles Jones, and Gender Gap for Development.” FAO, Rome. Peter Klenow. 2011. “The Allocation of Talent FAO (Food and Agriculture Organization), IFAD and Economic Growth.” Chicago Booth, Chicago. (International Fund for Agricultural Develop- Processed. ment), and ILO (International Labour Office). ICF Macro. 2010. “Demographic and Health Sur- 2010. “Gender Dimensions of Agricultural and veys.” Measure DHS, ICF Macro, Calverton, MD. Rural Employment: Differentiated Pathways out ILO (International Labour Organization). 2010. “Key of Poverty. Status, Trends and Gaps.” FAO, IFAD, Indicators of the Labour Market.” ILO, Geneva. and ILO, Rome. ICRW (International Center for Research on Gage, Anastasia J. 2005. “Women’s Experience of In- Women). 2006. Property Ownership & Inheritance timate Partner Violence in Haiti.” Social Science & Rights of Women for Social Protection: The South Medicine 61 (2): 343–64. Asia Experience. Washington, DC: ICRW. Gajigo, Ousman, and Mary Hallward-Driemeier. Iyer, Lakshmi, Anandi Mani, Prachi Mishra, and 2011. “Constraints and Opportunities for New Petia Topalova. 2010. “Political Representation Entrepreneurs in Africa.” World Bank, Washing- and Crime: Evidence from India’s Panchayati Raj.” ton, DC. Processed. International Monetary Fund, Washington, DC. Gilbert, Robert A., Webster D. Sakala, and Todd D. Processed. Benson. 2002. “Gender Analysis of a Nationwide Jensen, Robert. 2010. “Economic Opportunities and Cropping System Trial Survey in Malawi.” African Gender Differences in Human Capital: Experi- Studies Quarterly 6 (1). mental Evidence for India.” Working Paper Series Gilliam, Melissa L. 2010. “Interventions for Prevent- 16021, National Bureau of Economic Research, ing Unintended Pregnancies among Adolescents.” Cambridge, MA. Obstetrics and Gynecology 115 (1): 171–72. Jeyaseelan, L., Shuba Kumar, Nithya Neelakantan, Gneezy, Uri, Kenneth L. Leonard, and John A. List. Abraham Peedicayil, Rajamohanam Pillai, and 2009. “Gender Differences in Competition: Evi- Nata Duvvury. 2007. “Physical Spousal Violence dence from a Matrilineal and a Patriarchal Soci- against Women in India: Some Risk Factors.” Jour- ety.” Econometrica 77 (5): 1637–64. nal of Biosocial Science 39 (5): 657–70. Gornick, Janet C., and Jerry A. Jacobs. 1998. “Gen- Kabeer, Nalia. 1996. “Agency, Well-Being & Inequal- der, the Welfare State, and Public Employment: ity: Reflections on the Gender Dimensions of Pov- A Comparative Study of Seven Industrialized erty.” IDS Bulletin 27 (1): 11–21. Countries.” American Sociological Review 63 (5): ———. 1999. “Resources, Agency, Achievements: 688–710. Reflections on the Measurement of Women’s Haddad, Lawrence, John Hoddinott, and Harold Al- Empowerment.” Development and Change 30 (3): derman. 1997. Intrahousehold Resource Allocation 35–64. in Developing Countries: Models, Methods, and Katz, Elizabeth, and Juan Sebastian Chamorro. 2003. Policy. Baltimore: Johns Hopkins University. “Gender, Land Rights, and the Household Econ- Hallward-Driemeier, Mary. 2011. “Improving the omy in Rural Nicaragua and Honduras.” Paper Legal Investment Climate for Women in Sub- presented at the Annual Conference of the Latin Saharan Africa.” World Bank, Washington, DC. American and Caribbean Economics Association, Hindin, Michelle J., Sunita Kishor, and Donna L. Puebla, Mexico, October 9. Ansara. 2008. “Intimate Partner Violence among Kinkingninhoun-Mêdagbé, Florent M., Aliou Di- Couples in 10 DHS Countries: Predictors and agne, Franklin Simtowe, Afiavi R. Agboh-No- Health Outcomes.” DHS Analytical Studies 18, ameshie, and Patrice Y. Adégbola. 2010. “Gen- U.S. Agency for Iinternational Development, der Discrimination and Its Impact on Income, Washington, DC. Productivity, and Technical Efficiency: Evidence Tổng quan 47 from Benin.” Agriculture and Human Values 27 Nguyen, Trang. 2008. “Information, Role Models (1): 57–69. and Perceived Returns to Education: Experimen- Kishor, Sunita, and Kiersten Johnson. 2004. Profiling tal Evidence from Madagascar.” Working Paper, Domestic Violence: A Multi-Country Study. Cal- Massachusetts Institute of Technology, Cam- verton, MD: ORC Macro. bridge, MA. Koenig, Michael A., Rob Stephenson, Saifuddin Ñopo, Hugo, Miguel Robles, and Jaime Saavedra. Ahmed, Shireen J. Jejeebhoy, and Jacquelyn 2007. “Occupational Training to Reduce Gender Campbell. 2006. “Individual and Contextual De- Segregation: The Impacts of ProJoven.” Working terminants of Domestic Violence in Northern Paper Series 623, Inter-American Development India.” American Journal of Public Health 96 (1): Bank Research Department, Washington, DC. 132–38. Nyamu-Musembi, Celestine. 2002. “Are Local Kremer, Michael, Edward Miguel, and Rebecca Norms and Processes Fences or Pathways? The Thornton. 2009. “Incentives to Learn.” Review of Example of Women’s Property Rights.” In Cul- Economics and Statistics 91 (3): 437–56. tural Transformations and Human Rights in Af- Leonard, Jonathan S. 1989. “Women and Affirmative rica, ed. Abdullahi A. An-Na’im. London: Zed Action.” Journal of Economic Perspectives 3 (1): Books. 61–75. Oladeebo, J. O., and A. A. Fajuyigbe. 2007. “Technical Lewis, Maureen A., and Marlaine E. Lockheed. 2006. Efficiency of Men and Women Upland Rice Farm- Inexcusable Absence: Why 60 Million Girls Aren’t ers in Osun State, Nigeria.” Journal of Human Ecol- in School and What to Do About It. Washington, ogy 22 (2): 93–100. DC: Center for Global Development. OECD (Organisation for Economic Cooperation and Lim, Stephen S., Lalit Dandona, Joseph A. Hoising- Development). 1993. Private Pay for Public Work. ton, Spencer L. James, Margaret C. Hogan, and Performance-Related Pay for Public Sector Manag- Emmanuela Gakidou. 2010. “India’s Janani Surak- ers. Paris: OECD. sha Yojana, A Conditional Cash Transfer Pro- Pathmanathan, Indra, Jerker Liljestrand, Jo M. Mar- gramme to Increase Births in Health Facilities: An tins, Lalini C. Rajapaksa, Craig Lissner, Amalia Impact Evaluation.” Lancet 375 (9730): 2009–23. de Silva, Swarna Selvaraju, and Prabha Joginder Luke, Nancy, and Kaivan Munshi. 2011. “Women as Singh. 2003. “Investing in Maternal Health Learn- Agents of Change: Female Income and Mobility in ing from Malaysia and Sri Lanka.” World Bank, India.” Journal of Development Economics 94 (1): Washington, DC. 1–17. Prata, Ndola, Paige Passano, Amita Sreenivas, and Lundberg, Shelly J., Robert A. Pollak, and Terence J. Caitlin Elisabeth Gerdts. 2010. “Maternal Mortal- Wales. 1997. “Do Husbands and Wives Pool Their ity in Developing Countries: Challenges in Scaling Resources? Evidence from the United Kingdom Up Priority Interventions.” Women’s Health 6 (2): Child Benefit.” Journal of Human Resources 32 (3): 311–27. 463–80. Pronyk, Paul M., James R. Hargreaves, Julia C. Kim, Martin, Sandra L., Kathryn E. Moracco, Julian Garro, Linda A. Morison, Godfrey Phetla, Charlotte Amy Ong Tsui, Lawrence L. Kupper, Jennifer L. Watts, Joanna Busza, and John D. H. Porter. 2006. Chase, and Jacquelyn C. Campbell. 2002. “Do- “Effect of a Structural Intervention for the Pre- mestic Violence across Generations: Findings vention of Intimate-partner Violence and HIV in from Northern India.” International Journal of Rural South Africa: A Cluster Randomized Trial.” Epidemiology 31 (3): 560–72. Lancet 2368 (9551): 1973–83. Martinez, Sebastian, and others. 2011. “Hard Skills Qian, Nancy. 2008. “Missing Women and the Price of or Soft Skills.” Presentation to the World Bank, Tea in China: The Effect of Sex-Specific Earnings Washington, DC. on Sex Imbalance.” Quarterly Journal of Economics McEwen, Bruce S. 1999. “Stress and Hippocampal 123 (3): 1251–85. Plasticity.” Annual Review of Neuroscience 22 (1): Quisumbing, Agnes R., and John A. Maluccio. 2000. 105–22. “Intrahousehold Allocation and Gender Rela- Miller, Grant. 2008. “Women’s Suffrage, Political Re- tions: New Empirical Evidence from Four De- sponsiveness, and Child Survival in American veloping Countries.” Discussion Paper 84, Food History.” Quarterly Journal of Economics 123 (3): Consumption and Nutrition Division, Interna- 1287–327. tional Food Policy Research Institute, Washing- Moock, Peter R. 1976. “The Efficiency of Women as ton, DC. Farm Managers: Kenya.” American Journal of Ag- Rawlings, Laura, B., and Gloria M. Rubio. 2003. ricultural Economics 58 (5): 831–5. “Evaluating the Impact of Conditional Cash Natarajan, Mangai. 2005. “Status of Women Police in Transfer Programs: Lessons from Latin Amer- Asia: An Agenda for Future Research.” Journal for ica.” Policy Research Working Paper Series 3119, Women and Policing 17: 45–47. World Bank, Washington, DC. 48 B Á O C Á O P HÁT T R I Ể N T H Ế G I Ớ I 2 0 1 2 Reed, Elizabeth, Anita Raj, Elizabeth Miller, and Thomas, Duncan. 1990. “Intra-Household Resource Jay G. Silverman. 2010. “Losing the ‘Gender’ in Allocation: An Inferential Approach.” Journal of Gender-Based Violence: The Missteps of Research Human Resources 25 (4): 635–64. on Dating and Intimate Partner Violence.” Vio- Thomas, Duncan, John Strauss, and Maria-Helena lence Against Women 16 (3): 348–54. Henriques. 1990. “Child Survival, Height for Age, Ross, David A., John Changalucha, Angela I. N. Obasi, and Household Characteristics in Brazil.” Journal Jim Todd, Mary L. Plummer, Bernadette Cleophas- of Development Economics 33 (2): 197–234. Mazige, Alessandra Anemona, Dean Everett, Udry, Christopher. 1996. “Gender, Agricultural Pro- Helen A. Weiss, David C. Mabey, Heiner duction, and the Theory of the Household.” Jour- Grosskurth, and Richard J. Hayes. 2007. “Biologi- nal of Political Economy 104 (5): 1010–46. cal and Behavioural Impact of an Adolescent Sex- United Nations Department of Economic and Social ual Health Intervention in Tanzania: A Commu- Affairs. 2009, “World Population Prospects 2009.” nity-Randomized Trial.” AIDS 21 (14): 1943–55. United Nations, New York. Rubalcava, Luis, Graciela Teruel, and Duncan ———. 2010. “The World’s Women 2010: Trends and Thomas. 2009. “Investments, Time Preferences, Statistics.” United Nations, New York. and Public Transfers Paid to Women.” Economic Vargas Hill, Ruth, and Marcella Vigneri. 2009. Development and Cultural Change 57 (3): 507–38. “Mainstreaming Gender Sensitivity in Cash Crop Sabarwal, Shwetlena, Katherine Terrell, and Elena Markets Supply Chains.” International Food Pol- Bardasi. 2009. “How Do Female Entrepreneurs icy Research Institute, Washington, DC. Perform? Evidence from Three Developing Re- Waddington, Hugh, Birte Snilstveit, Howard White, gions.” World Bank, Washington, DC. Processed. and Lorna Fewtrell. 2009. “Water, Sanitation Saito, Katrine A., Hailu Mekonnen, and Daphne and Hygiene Interventions to Combat Childhood Spurling. 1994. “Raising the Productivity of Diarrhoea in Developing Countries.” Interna- Women Farmers in Sub-Saharan Africa.” Africa tional Initiative for Impact Evaluation 31E, Syn- Technical Department Discussion Paper Series thetic Review, New Delhi, London, and Washing- 230, World Bank, Washington, DC. ton, DC. Schady, Norbert, and Maria Caridad Araujo. 2006. WHO (World Health Organization). 2005. “WHO “Cash Transfers, Conditions, School Enrollment, Multi-country Study on Women’s Health and and Child Work: Evidence from a Randomized ­ Domestic Violence against Women: Initial Results Experiment in Ecuador.” Policy Research Working on Prevalence, Health Outcomes and Women’s Paper Series 3930, World Bank, Washington, DC. Responses.” WHO, Geneva. Schady, Norbert, and José Rosero. 2008. “Are Cash WHO, UNICEF (United Nations Children Fund), Transfers Made to Women Spent Like Other UNFPA (United Nations Population Fund), and Sources of Income?” Economics Letters 101 (3): World Bank. 2010. “Trends in Maternal Mortality: 246–48. 1990 to 2008.” WHO, Washington, DC. Schmidt, Manfred G. 1993. “Gendered Labour Force World Bank. 2001. “Engendering Development— Participation.” In Families of Nations: Patterns of Through Gender Equality, Resources, and Voice. Public Policy in Western Democracies, ed. Frances Policy Research Report, World Bank, Washing- G. Castles. Dartmouth Publishing Company, Al- ton, DC.” dershot, U.K., and Brookfield, VT. ———-. 2005. World Development Report 2006: Eq- Sen, Amartya. 1990. “Gender and Cooperative uity and Development. New York: Oxford Univer- ­Conflict.” In Persistent Inequalities: Women and sity Press. Development, ed. Irene Tinker. Oxford, U.K.: Ox- ———. 2008. Growth Report. Strategies for Sustained ford University Press. Growth and Inclusive Development. Washington, ———. 1992. “Missing Women.” British Medical Jour- DC: World Bank. nal 304: (6827): 587–8. ———. 2011. “Defining Gender in the 21st Century: ———. 1999. Development as Freedom. New York: Talking with Women and Men around the World, Knopf. A Multi-Country Qualitative Study of Gender and Swaminathan, Hema, Cherryl Walker, and Margaret Economic Choice.” World Bank, Washington, DC. A. Rugadya, eds. 2008. Women’s Property Rights, Yount, Kathryn M., and Jennifer S. Carrera. 2006. HIV and AIDS, and Domestic Violence: Research “Domestic Violence against Married Women in Findings from Two Rural Districts in South Africa Cambodia.” Social Forces 85 (1): 355–87. and Uganda. Cape Town: HSRC Press. Terefe, Almas, and Charles P. Larson. 1993. “Modern Contraception Use in Ethiopia: Does Involving Husbands Make a Difference?” American Journal of Public Health 83 (11): 1567–71. Mục lục của Báo cáo Phát triển Thế giới 2012 Lời nói đầu Lời cảm ơn Các từ viết tắt và chú thích số liệu Tổng quan Lời mở đầu: Hướng dẫn đọc báo cáo phần I  Thực trạng bình đẳng giới 1 Làn sóng tiến bộ 2 Sự tồn tại dai dẳng của tình trạng bất bình đẳng giới Tiêu đề 1  Lộ trình của phụ nữ trong tăng cường quyền làm chủ Liệu mọi ngả đường đều đều dẫn tới La Mã? phần II  Yếu tố nào tạo ra sự tiến bộ? Yếu tố nào cản trở tiến bộ? 3  Giáo dục và sức khỏe: Bất bình đẳng giới ở những đâu là vấn đề thực sự? 4 Tăng cường năng lực trung gian của phụ nữ Tiêu đề 2  Sự suy giảm vai trò của người lao động chính Nam giới trong thế kỷ 21 5 Bất bình đẳng giới về việc làm và vì sao cần quan tâm đến vấn đề này 6 Tác động toàn cầu của vấn đề bình đẳng giới: Thực trạng và yêu cầu Tiêu đề 3  Thay đổi về độ tuổi, thể chất, thời cuộc – Tuổi vị thành niên ở trẻ em trai và trẻ em gái PHẦN III  Vai trò và tiềm năng của giải pháp công 7 Giải pháp công về bình đẳng giới 8 Kinh tế học chính trị về cải cách trong vấn đề giới 9 Chương trình toàn cầu về tăng cường bình đẳng giới Chú thích Tham khảo    Các thông tin cơ bản và Chú thích Một số chỉ số    Một số Chỉ số Phát triển Thế giới    Chỉ mục    50 Cuộc sống của phụ nữ trên toàn thế giới đã được cải thiện đáng kể, với tốc độ và quy mô khó có thể tưởng tượng được thậm chí 25 năm trước đây. Phụ nữ đã đạt được những thành tựu chưa từng trong vấn đề quyền pháp lý, giáo dục, y tế, và khả năng tiếp cận việc làm và sinh kế. Hiện có nhiều quốc gia hơn bao giờ hết đảm bảo quyền bình đẳng về tài sản, hôn nhân, và các lĩnh vực khác. Ở nhiều quốc gia, khoảng cách giới trong giáo dục tiểu học đã không còn tồn tại, trong khi đó trong một phần 3 số quốc gia trên thế giới, số lượng học sinh nữ hiện nay đã vượt quá số lượng học sinh nam tại trường trung học. Và tại 60 quốc gia thì số lượng sinh viên nữ theo học đại học cao hơn số lượng sinh viên nam. Hiện nay, phụ nữ đang tận dụng giáo dục để được tham gia nhiều hơn và lực lượng lao động: hiện nay số lượng phụ nữ đã chiếm tới 40% lực lượng lao động toàn cầy và 43% số nông dân toàn cầu. Hơn nữa, hiện nay ở tất cả các khu vực trên thế giới, phụ nữ có tuổi thọ cao hơn nam giới. Mặc dù đã đạt được những tiến độ nhất định, xong khoảng cách giới vẫn còn tồn tại trong nhiều lĩnh vực. Tỷ lệ tử vong ở phụ nữ - so với nam giới - ở nhiều quốc gia thu nhập thấp và trung bình cao hơn tỷ lệ tử vong ở phụ nữ ở các quốc gia giàu có – đặc biệt là trong độ tuổi thơ ấu hoặc trong những năm sinh đẻ. Tại nhiều quốc gia khu vực Hạ Xahara Châu Phi và một số nơi trong khu vực Nam Á, cũng như trong các nhóm dân cư có hoàn cảnh khó khăn, số lượng các bé gái theo học các trường tiểu học và trung học còn thấp hơn số lượng các bé trai rất nhiều. Phụ nữ có nhiều khả năng làm việc tại các vị trí lao động không công trong gia đình hoặc trong khu vực phi chính thức hơn, trồng trọt trên những lô đất nhỏ hơn và trồng các loại cây lợi nhuận thấp hơn, hoạt động trong những công ty nhỏ hơn và trong những khu vực ít lợi nhuận hơn, và nhìn chung có thu nhập thấp hơn nam giới. Phụ nữ - đặc biệt là phụ nữu nghèo – có ít tiếng nói hơn trong các quyết định và có ít quyền kiểm soát các nguồn lực gia đình hơn. Và tại hầu hết các quốc gia, số lượng phụ nữ tham gia vào các vị trí chính trị thấp hơn số lượng nam giới, và tỷ lệ nữ giới đại diện ở các cấp cao hơn rất thấp. Báo cáo Phát triển Thế giới 2012: Bình đẳng giới và Phát triển đã lập luận rằng vấn đề quan trọng ở đây là xóa bỏ được những khoảng cách giới vẫn còn tồn tại dai dẳng này. Đây là vấn đề quan trọng vì bình đẳng giới là mục tiêu cốt lõi trong quá trình phát triển. Bình đẳng giới cũng tạo nên một nền kinh tế thông minh. Bình đẳng giới cao hơn có thể góp phần nâng cao năng suất, cải thiện kết quả của quá trình phát triển cho thế hệ tiếp theo, và làm cho các tổ chức được đại diện tốt hơn. Xây dựng trên cơ sở kiến thức kinh tế học về bình đẳng giới và phát triển ngày càng sâu rộng, Báo cáo xác định các khu vực khoảng cách giới còn thể hiện rõ nét nhất về cả mặt bản chất và tiềm năng phát triển – và những nơi mà chỉ riêng tốc độ tăng trưởng không thể giải quyết được vấn đề này. Sau đó, Báo cáo đã đưa tra được 4 lĩnh vực ưu tiên hành động công khai: • Giảm tỷ lệ tử vong quá cao ở phụ nữ và xóa bỏ khoảng cách về giáo dục ở những nơi còn tồn tại. • Cải thiện khả năng tiếp cận các cơ hội kinh tế cho phụ nữ. • Tăng cường tiếng nói và vai trò làm chủ của nữ giói trong gia đình và xã hội. • Hạn chế việc lặp đi lặp lại hiện tượng bất bình đẳng giới qua các thế hệ. Các chính sách cần tập trung vào các yếu tố quyết định cơ bản khoảng cách giới trong mỗi lĩnh vực ưu tiên. Trong một số lĩnh vực ưu tiên, chẳng hạn như tỷ lệ tử vong quá cao ở nữ giới trong thời còn nằm trong bụng mẹ và trong những năm đầu đời cũng như những năm sinh đẻ - cải thiện chất lượng cung cấp dich vụ (đặc biệt là nước sạch và vệ sinh môi trường, và chăm sóc sức khỏe bà mẹ) là vấn đề quan trọng hành đầu. Đối với những lĩnh vực ưu tiên khác, như khoảng cách giới trong thu nhập và năng suất lao động – các chính sách cần tập trung giải quyết các khó khăn bắt nguồn từ các hoạt động của thị trường và các tổ chức làm hạn chế sự tiến bộ. Các nhà hoạch định chính sách sẽ cần phải dành ưu tiên cho những hạn chế này và giải quyết chúng đồng thời một lúc hoặc giải quyết tuần tự. Trong khi các chính sách trong nước là trọng tâm để đạt mục tiêu giảm bất bình đẳng giới, các đối tác phát triển nên tập trung hỗ trợ bổ sung những nỗ lực này trong các lĩnh vực ưu tiên, và hỗ trợ hành động công dựa trên bằng chứng thông qua các dữ liệu, đánh giá và học hỏi tốt hơn. Điều này sẽ đòi hỏi nhiều nguồn tài trợ và nhiều nỗ lực hơn nữa để khuyến khích đổi mới và học hỏi, và thúc đẩy các quan hệ hợp tác sâu rộng hơn. Các nguồn tài trợ cần phải được chỉ đạo đặc biệt để hỗ trợ các quốc gia nghèo nhất giảm được tỷ lệ tử vong quá cao ở phụ nữ và khoảng cách giới trong giáo dục. Cần phải có các khoản đầu tư để cải thiện được độ khả dụng của các dữ liệu tách biệt giới và hỗ trợ được nhiều thử nghiệm và đánh giá hệ thống hơn. Và các quan hệ đối tác cần thu hút sự tham gia của các khu vực tư nhân, các tổ chức phát triển và các tổ chức xã hội dân sự.